Thi thoảng, có vài người gọi điện / nhắn tin / viết mail / gửi messega hỏi tôi: "Vì sao ở Huế có các" dòng họ ": Tôn Thất, Nguyễn Phúc (Phước), Tôn Nữ, Công Tôn Nữ.. gốc gác từ đâu? Có phải con cháu các vua triều Nguyễn không? Vì sao cha thì" họ "Bửu mà con trai thì" họ "Vĩnh", con gái thì "họ" Công Tôn Nữ.. Tôi đã trả lời cho nhiều người, nhưng rồi thấy hơi oải vì phải trả lời từng người và trả lời nhiều lần, nên nay tôi gom lại trả lời một lần cho luôn.. mồ hôi. Thông tin dưới đây do tôi tập hợp thông tin (và sử dụng hành văn) từ các nguồn sau: Sách KHÂM ĐỊNH ĐẠI NAM HỘI ĐIỂN SỰ LỆ, do Nội các triều Nguyễn biên soạn, bản dịch của Viện Sử học, (Nxb Thuận Hóa ở Huế xuất bản năm 1993) ; - Sách ĐẠI NAM THỰC LỤC, do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, bản dịch của Viện Sử học (Tập 2, Nxb Sử học, 1962) ; - Sách NGUYỄN PHÚC TỘC THẾ PHẢ do Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc tộc biên soạn (Nxb Thuận Hóa ở Huế xuất bản năm 1995) ; - Sách TỪ ĐIỂN NHÀ NGUYỄN của Võ Hương An, tức nhà nghiên cứu Võ Văn Dật, hiện đang sống ở Hoa Kỳ. (Cuốn sách này hiện do Tao Đàn Thư Quán và Nxb Thành phố Hồ Chí Minh đang hợp tác để tái bản, với nhiều điều chỉnh, bổ sung so với bản in lần đầu ở Hoa Kỳ và bản in lần 2 ở Đài Loan) ; - Thông tin từ wikipedia. Cụ thể như sau: Vào năm Minh Mạng thứ 10 (1829), nhà vua xuống dụ: ".. con hoàng tử gọi là công tử, thực chưa hợp lý, vậy từ nay về sau phàm con các hoàng tử đều gọi là hoàng tôn, những cháu của hoàng tử đều gọi là hoàng tằng tôn; các chắt hoàng tử đều gọi là hoàng huyền tôn, về gái cũng theo lệ ấy, không được gọi bừa, nếu ai phạm vào điều đó thì lấy luật trị tội để cho có sự phân biệt" (Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập I, tr. 80). (Xem biểu kê trong ảnh đính kèm dưới đây để hiểu rõ quy định của vua Minh Mạng) Từ quy định này cùng với việc ban hành ĐẾ HỆ THI và PHIÊN HỆ THI mà sinh ra cách đặt tên con trai và con gái trong hoàng tộc. I. VỀ CON TRAI 1.1. Đế hệ 帝系 và Phiên hệ 藩系 Năm 1558, Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng vâng lệnh vua Lê vào làm Trấn thủ Thuận Hóa sau kiêm luôn Quảng Nam (1570). Ông trở thành vị chúa đầu tiên của Đàng Trong, tục gọi là chúa Tiên, truyền cả thảy được chín đời chúa của họ Nguyễn Phúc, quê làng Gia Miêu Ngoại Trang, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Đời Minh Mạng, khi hệ thống hóa lại dòng tộc, vua xếp các hậu duệ thuộc chín đời chúa vào Tiền hệ (tức hệ của những người mang "họ" Tôn Thất) và xếp con cháu vua Gia Long vào Chánh hệ. Trong Chánh hệ, lại phân ra: - Đế hệ là dòng con cháu vua Minh Mạng; - Phiên hệ là dòng các anh em vua Minh Mạng. 1.2. ĐẾ HỆ THI 帝系詩 và Phiên hệ thi 藩系詩 ĐẾ HỆ THI và Phiên hệ thi là những bài thơ bốn câu 20 chữ do vua Minh Mạng đặt ra năm 1822, quy định chữ lót dành cho dòng làm vua (Đế hệ) và dòng các anh em khác của vua (Phiên hệ) nhằm mục đích phân biệt rõ các dòng và thứ tự trên dưới các đời. 1.2. 1. Sự thành hình của ĐẾ HỆ THI và Phiên hệ thi Vua Gia Long có tất cả 13 hoàng tử. Ba người đầu là hoàng tử Cảnh, hoàng tử Hy và hoàng tử Tuấn đều mất sớm, hoàng tử thứ tư là Nguyễn Phúc Đảm được lập làm Đông cung Thái tử năm 1816, về sau nối ngôi tức vua Minh Mạng. Vua Minh Mạng lập Tôn Nhơn Phủ để quản lý người hoàng tộc. Trong mục đích hệ thống hóa dòng tộc, năm Minh Mạng thứ tư (1823) vua làm ra bài thơ ĐẾ HỆ THI, cho khắc trên sách vàng (Kim sách), dành làm chữ lót cho dòng các con cháu của vua, và mười bài thơ Phiên hệ, khắc trên sách bạc (ngân sách), dành cho các dòng con cháu của các anh em vua. Các bài thơ này giúp phân biệt rõ dòng làm vua và dòng không làm vua, và thứ tự các đời trên dưới, như vua đã nói, "thân sơ phân biệt mà có thể biết rõ được". 1.2. 2. ĐẾ HỆ THI và việc đặt tên 綿洪膺寶永 保貴定隆長 賢能堪繼述 世瑞國嘉昌 * Phiên âm: Miên Hường Ưng Bửu Vĩnh Bảo Quý Định Long Trường Hiền Năng Kham Kế Thuật Thế Thoại Quốc Gia Xương * Dịch nghĩa: Huân nghiệp lớn do Tổ Tiên gầy dựng, Gắng giữ gìn cho xứng ân sau. Phồn vinh thịnh đạt dài lâu, Anh tài hiền đức cùng nhau bảo toàn. Đời đời nối nghiệp tiền nhân, Nước nhà hưng vượng muôn phần phát huy. * Giải nghĩa: - MIÊN: Trường cửu, phước duyên trên hết - HƯỜNG (HỒNG) : Oai hùng, đúc kết thế gia - ƯNG: Nên danh, xây dựng sơn hà - BỬU: Bối báu, lợi tha quần chúng - VĨNH: Bền chí, hùng anh ca tụng - BẢO: Ôm lòng, khí dũng bình sanh - QUÝ: Cao sang, vinh hạnh công thành - ĐỊNH: Tiền quyết, thi hành oanh liệt - LONG: Vương tướng, rồng tiên nối nghiệp - TRƯỜNG: Vĩnh cửu, nối tiếp giống nòi - HIỀN: Tài đức, phúc ấm sáng soi - NĂNG: Gương nơi khuôn phép bờ cõi - KHAM: Đảm đương, mọi cơ cấu giỏi - KẾ: Hoạch sách, mây khói cân phân - THUẬT: Biên chép, lời đúng ý dân - THẾ: Mãi thọ, cận thân gia tộc - THOẠI (THỤY) : Ngọc quý, tha hồ phước lộc - QUỐC: Dân phục, nằm gốc giang san - GIA: Muôn nhà, Nguyễn vẫn huy hoàng - XƯƠNG: Phồn thịnh, bình an thiên hạ Bài ĐẾ HỆ THI được khắc trong một cuốn sách bằng vàng (kim sách), cất trong hòm vàng (kim quỹ) để lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, các bài Phiên hệ thi cũng được khắc trong các cuốn sách bằng bạc. Năm 1945, khi vua Bảo Đại thoái vị đã nộp lại cho Chính phủ Việt Minh ấn kiếm và kim sách Đế hệ thi. Hiện nay, kim sách ĐẾ HỆ THI đang được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam. Sách làm theo khổ chữ nhật đứng, gồm 13 tờ vàng, gồm bìa trước và sau chạm hình rồng bay trong mây và 11 tờ ruột khắc sách văn, gáy đóng 4 khuyên tròn. Ngày 31/3/2016, lần đầu tiên kim sách ĐẾ HỆ THI đã được Bảo tàng Lịch sử quốc gia đưa ra giới thiệu tới quảng đại công chúng trong cuộc trưng bày chuyên đề "Bảo vật hoàng cung - Kim sách Triều Nguyễn (1802 - 1945)". Theo ĐẾ HỆ THI, các con của vua Minh Mạng sẽ mang chữ lót là Miên, chữ đầu tiên của bài thơ, kế đến đời cháu nội sẽ có chữ lót là Hồng, chắt nội là Ưng.. Ví dụ: - Vua Thiệu Trị húy là Nguyễn Phúc Miên Tông 綿宗; - Vua Tự Đức húy là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm 洪任; - Vua Dục Đức húy là Nguyễn Phúc Ưng Chân 膺禛. Cứ sử dụng theo thứ tự như thế cho đến chữ cuối cùng (Xương) thì trở lại từ đầu (Miên). Ngoài việc quy định thế thứ bằng chữ lót, vua còn ban cho mỗi đời một bộ chữ nho để đặt tên. Ví dụ: Đời chữ Miên 綿 sẽ đặt tên con theo bộ Miên 宀; kế đến, đời chữ Hồng 洪 sẽ đặt tên con theo bộ Nhân亻, đời chữ Ưng 膺 sẽ đặt tên con theo bộ kỳ (thị) 示礻 như thấy trong tên các vua nói trên và trong bảng kê (chữ ở trong ngoặc đơn là bộ). Với bài ĐẾ HỆ THI, vua Minh Mạng mong muốn sau mình, vương triều Nguyễn sẽ truyền nối tới 20 đời. Nhưng cuối cùng chỉ dừng lại ở chữ Vĩnh (Vĩnh Thụy, tức vua Bảo Đại), tức là dừng lại ở đời thứ 5 (hết câu 1 trong bài ĐẾ HỆ THI). 1.2. 3. Phiên hệ thi và việc đặt tên Có tất cả 10 bài Phiên hệ thi dành cho 10 anh em ruột của vua Minh Mạng; bài dành cho ông hoàng nào thì lấy tước hiệu của ông hoàng đó làm nhan đề. Ngoài việc đặt chữ lót để phân biệt thế thứ, vua cũng quy định cách đặt tên, tương tự như bên Đế hệ nhưng đơn giản hơn. Phiên hệ đặt tên theo nguyên tắc ngũ hành tương sinh, gồm các bộ thổ 土, kim 金, thủy 水, mộc 木, hỏa 火, như thấy ghi điển hình trong bài Anh Duệ hệ sau đây. Với nguyên tắc này, ta thấy con của hoàng tử Cảnh là Nguyễn Phúc Mỹ Đường 美堂 viết tên với bộ thổ土, rồi cháu là Nguyễn Phúc Lệ Chung 麗鐘, viết tên với bộ kim 金. Kỳ Ngoại Hầu Cường Để 彊柢 thuộc đời thứ tư, tên viết với bộ mộc 木. * Bài thứ 1: Dòng Anh Duệ Thái tử Nguyễn Phúc Cảnh: Phiên âm: Mỹ Duệ Anh Cường Tráng Liên Huy Phát Bội Hương Linh Nghi Hàm Tốn Thuận Vĩ Vọng Biểu Khôn Quang Trên đây là nội dung ban đầu. Về sau, vì kiêng húy nên chữ Anh 英 (câu 1) đổi làm Tăng 增. Tương tự, chữ Khiêm 謙 trong câu cuối đổi thành Khôn 坤. * Bài thứ 2. Dòng Kiến An Vương Nguyễn Phúc Đài: Phiên âm: Lương Kiến Ninh Hòa Thuật Du Hành Suất Nghĩa Phương Dưỡng Di Tương Thức Hảo Cao Túc Thể Vi Tường * Bài thứ 3. Dòng Định Viễn Quận Vương Nguyễn Phúc Bính: Phiên âm: Tịnh Hoài Chiêm Viễn Ái Cảnh Ngưỡng Mậu Thanh Hoa Nghiễm Khác Do Trung Đạt Liên Trung Tập Cát Đa Vì kiêng húy, chữ Hoa 華 (câu 2) đổi làm chữ Kha 珂; Chữ Khác 恪 (câu 3), Nguyễn Phúc tộc thế phả chép là Cách 格. * Bài thứ 4. Dòng Diên Khánh Vương Nguyễn Phúc Tấn: Phiên âm: Diên Hội Phong Hanh Hiệp Nguyên Phùng Thái Lãng Nghi Hậu Lưu Thành Tú Diệu Diễn Khánh Thích Phương Huy Do kiêng húy, chữ Nguyên 元 (câu 2) đổi thành Trọng 重; Chữ Thái 泰 đổi thành Tuấn 儁. * Bài thứ 5. Dòng Điện Bàn Công Nguyễn Phúc Phổ: Phiên âm: Tín Diện Tư Duy Chính Thành Tồn Lợi Kiến Trinh Túc Cung Toàn Hữu Nghị Vinh Hiển Tập Khanh Danh Do kiêng húy, chữ Kiến 建 (câu 2) đổi thành Thỏa 妥; Chữ Toàn 全 (câu 3) đổi thành chữ Thừa 承. * Bài thứ 6. Dòng Thiệu Hóa Quận Vương Nguyễn Phúc Chấn: Phiên âm: Thiện Thiệu Thuần Tuần Lý Văn Tri Tại Mẫn Cầu Ngưng Lân Tài Chí Lạc Địch Đạo Doãn Phu Hưu Do kiêng húy, chữ Thuần 純 (câu 1) đổi thành chữ Kỳ 期; chữ Cầu 求 (câu 2) đổi thành chữ Du 猷. * Bài thứ 7. Dòng Quảng Uy Công Nguyễn Phúc Quân: Phiên âm: Phụng Phù Trưng Khải Quảng Kim Ngọc Trác Tiêu Kỳ Điển Học Kỳ Gia Chí Đôn Di Khắc Tự Trì * Bài thứ 8. Dòng Thường Tín Quận Vương Nguyễn Phúc Cự: Phiên âm: Thường Hựu Tuân Gia Huấn Lâm Trang Túy Thịnh Cung Thận Tu Di Tiến Đức Thụ Ích Mậu Tân Công Nguyễn Phúc tộc thế phả chép chữ Hựu (câu 1) là chữ Cát. Trong câu 2, Nguyễn Phúc tộc thế phả chép là Lâm Túy Trang Thịnh Cung. Không rõ lý do. * Bài thứ 9. Dòng An Khánh Vương Nguyễn Phúc Quang: Phiên âm: Khâm Hoa Xưng Ý Phạm Nhã Chỉ Thủy Hoằng Quy Khải Để Đằng Cần Dự Quyền Ninh Cộng Tập Hi Vì kiêng húy, chữ Hoa 華 (câu 1) đổi thành chữ Tòng 從; Nguyễn Phúc tộc thế phả chép chữ Chỉ 止 (câu 2) là chữ Chính 正. * Bài thứ 10. Dòng Từ Sơn Công Nguyễn Phúc Mão: Phiên âm: Từ Thái Dương Quỳnh Cẩm Phu Văn Ái Diệu Hoàng Bách Chi Giai Phụ Đức Vạn Diệp Hiệu Khuông Tương Theo Nguyễn Phúc tộc thế phả, vì kiêng húy, chữ Giai 皆 trong câu 3 thay bằng chữ Quân 勻; Sách này cũng chép khác: Thái 寀 (câu 1) chép là Thể 采; Chương 彰 (câu 2) chép là Dương 陽. Chữ 敷 trong câu 2 nên đọc là phu như trong Nguyễn Phúc tộc thế phả thì đúng hơn là đọc phù như của Boudet (Boudet, "Les Archives des Empereurs d'Annam et Histoire Annamite", BAVH, No 3, 1942). Các chữ này Thế phả chép đúng thực tế hiện hành. 2. VỀ CON GÁI Theo quy định nói trên của vua Minh Mạng vào năm 1829, thì: - Con gái của hoàng tử (tức cháu nội vua) sẽ được gọi là Công Tôn nữ.. - Cháu nội gái của hoàng tử (tức chắt nội vua) sẽ được gọi là Công tằng Tôn nữ.. - Chắt nội gái của hoàng tử (tức chút nội vua) sẽ được gọi là Công huyền Tôn nữ.. - Chữ Công cho biết phụ nữ này thuộc dòng dõi của một hoàng tử họ Nguyễn Phúc. - Chữ Tôn nữ cho biết phụ nữ này là cháu gái của vua sanh ra hoàng tử đó. - Chữ Tằng cho biết phụ nữ này là cháu gái đời thứ tư (chắt) của vua sanh ra hoàng tử đó. - Chữ Huyền cho biết phụ nữ này là cháu gái đời thứ năm (chút) của vua sanh ra hoàng tử đó. Đối với người hoàng tộc, việc này không có gì khó hiểu, nhưng đối với dân chúng, người ta không rõ nguồn gốc, hiểu lầm rằng đó là một "họ" đặc biệt của Huế và sự hiểu lầm này đã thành nếp. - Lúc đầu thì các gia đình hoàng tộc thuộc Đế hệ phải đặt chữ Công ở đàng trước tên con gái nhưng sau thấy dài dòng quá, bỏ bớt đi cho tiện giấy tờ và giao dịch. Như vậy, thực chất, không có sự khác biệt giữa Công Huyền Tôn nữ và Huyền Tôn nữ. - Về sau này, nhất là sau khi chế độ quân chủ chấm dứt vào tháng 8.1945, khuynh hướng chung của con cháu thuộc Đế hệ là gọi con gái một cách vắn tắt bằng Tôn nữ mà thôi, không Tằng hay Huyền nữa, và hiện nay thì đa số trở lại họ gốc Nguyễn Phúc. Như vậy: * Công Tôn nữ: Nguyên nghĩa là cháu nội gái của vua, con gái của hoàng tử. * Công Huyền Tôn nữ hay Huyền Tôn nữ: Là một phụ nữ thuộc hoàng tộc nhà Nguyễn, có họ Nguyễn Phúc, là cháu năm đời của một vua nào đó, tức chút nội gái của vua, cháu gọi vua bằng ông Sơ. * Công tằng Tôn nữ hay Tằng Tôn nữ: Là một phụ nữ thuộc hoàng tộc nhà Nguyễn, có họ Nguyễn Phúc, là cháu bốn đời của một vua nào đó, tức chắt nội gái của vua, cháu gọi vua bằng ông Cố. NGƯỜI NƯỚC HUỆ (tập hợp, chỉnh lý, đăng tải) * * * DẶN THÊM: - Ai thích đọc cứ đọc, nếu thấy dài quá thì bỏ qua, NGHIÊM CẤM comment: "Dài quá", vì tôi không thích những comment tiêu cực như vậy xuất hiện ở đây. - Ai thích share cứ share, không cần hỏi ý kiến của tôi. - Ai thấy thông tin chưa chính xác hoặc có thắc mắc, cứ gửi comment ở dưới status này, tôi sẽ đọc và khi có thời gian hoặc sau khi tra cứu các nguồn sử liệu để đối chứng, tôi sẽ trả lời / làm rõ / điều chỉnh. OK? Nguồn Bài viết của thầy: Ts: Trần Đức Anh Sơn