Đạp xe 1 vòng Hồ Tây bao nhiêu km? Đây là câu đố thường được đưa ra khi các bạn trẻ muốn khám phá hết 1 vòng hồ Tây, rất nhiều người có nhà ở Hà Nội hay thậm chí gần ngay Hồ Tây nhưng cũng không biết đi 1 vòng Hồ Tây hết bao nhiêu km, Đi 1 vòng Hồ Tây như thế nào thì cùng đọc hết bài viết dưới đây và tìm câu trả lời cho các bạn nhé. Thông tin: Hồ Tây thuộc địa phận quận Tây Hồ, ở phía Tây Bắc Hà Nội. Sau nhiều lần bị thu hẹp, diện tích hồ Tây hiện tại khoảng 5, 2km2 hơn 500ha. Chu vi vòng ngoài khoảng 14, 8 km, chỉ riêng chiều dài đường ven hồ là khoảng 17 km. Kết luận: 1 vòng hồ tây có chu vi vòng ngoài là 14.8 km~15km tuy nhiên chiều dài đoạn đường để đi ven hồ là khoảng 17km, vậy nếu bạn muốn đạp xe, đi bộ, chạy hết 1 vòng hồ tây sẽ hết 17 km Hồ Tây được coi là lá phổi xanh của Thủ đô. Đạp xe 1 vòng Hồ Tây bao nhiêu calo? Hồ Tây khoảng 10h tối khá vắng vẻ và yên tĩnh, bạn có thể thoải mái luyện tập mà không phải né chướng ngại vật trên đường. Để đạp hết 1 vòng Hồ Tây với tốc độ trung bình bạn sẽ mất khoảng 1 tiếng đồng hồ. Tùy thuộc vào trọng lượng và mức độ đạp xe, năng lượng bị đốt cháy sẽ rơi vào khoảng 1200 - 1500 calo khi đạp trong 1h dạo 1 vòng quanh Hồ Tây. Khi mới luyện tập, bạn nên đạp chậm, khi đã quen, bạn cần tăng vận tốc và thời gian đạp xe lên nhiều hơn. Đi bộ 1 vòng Hồ Tây mất bao lâu? Trả lời: 1 người bình thường đi với tốc độ bình thường sẽ hết 40 phút Lịch sử Hồ Tây Sách Tây Hồ Chí ghi rằng: Hồ Tây có từ thời Hùng Vương, lúc bấy giờ nơi đây là một bến nằm giáp sông Hồng. Thuộc động Lâm Ấp, nên được gọi là bến Lâm Ấp thuộc thôn Long Đỗ. Ở vào thời Hai Bà Trưng, bến này thông với sông Hồng, bao bọc quanh hồ là rừng cây. Gồm nhiều loại thực vật như tre ngà, bàng, lim, lau sậy, gỗ tầm.. Cùng với một số loại thú quý hiếm sinh tồn. Dưới thời này xung quanh hồ có rất ít người sinh sống, và họ thường sống chủ yếu bằng nghề săn bắt. Như: Thú rừng, các loại tôm, cua, cá và trồng trọt. Dưới thời Lý, Trần, đây là một thắng cảnh được khai thác. Nhân dân thời đó đã biến nơi đây thành nơi khai hoang, lập ấp, nuôi tằm và dệt lụa. Thời xa xưa, Hồ Tây được các vua chúa triều đại phong kiến lấy làm trung tâm vui chơi nghỉ dưỡng giải trí cho các vua chúa và quần thần. Xung quanh hồ lúc ấy có đến 21 phường, nổi tiếng nhất là phường Thuỵ Khuê, Thạch Lâm, Báo Ân, Hồ Khẩu.. và rất nhiều lâu đài nguy nga, tráng lệ. Chung quanh hồ còn nhiều làng cổ truyền thống, mang đậm sắc thái văn hóa dân gian. Làng Nghi Tàm, quê hương Bà Huyện Thanh Quan, có chùa Kim Liên với kiến trúc độc đáo. Làng Nhật Tân vẫn gồng mình lên giữ đất – giữ nghề trồng hoa đào nổi tiếng. Làng Xuân Tảo với đền Sóc thờ Thánh Gióng oai hùng. Làng Trích Sài có chùa Thiên Niên thờ bà tổ nghề dệt lĩnh. Làng Kẻ Bưởi có nghề làm giấy cổ truyền, có đền Đồng Cổ là nơi bá quan văn võ hội thề từ thời Lý. Làng Thụy Khuê có chùa Bà Đanh nổi tiếng mà ai nghe đến cũng tủm tỉm cười.. Và đặc biệt là đền Quán Thánh ở góc đường Thanh Niên nổi tiếng trong và ngoài nước. Hồ Tây được xem là góc lãng mạng nhất trong bức tranh Hà Nội đa màu. Là nguồn cảm hứng bất tận của các nhà thơ, nhà văn, nghệ sỹ.. Với nhiều bài viết, bài hát về Hồ Tây làm nao nao lòng người. Hồ Tây không những đẹp bởi mặt nước xanh mệnh mông. Mà còn bởi sắc rực rỡ của bằng lăng tím, cánh hoa phượng đỏ mỗi khi hè về. Của những rặng liễu rũ những chiều đông, cái lung linh của ban mai tinh khiết, của cái nắng hoàng hôn lãng mạng. Thung lũng hoa Hồ Tây. Có người tìm đến một góc nhỏ nào đó để hóng gió, để nhâm nhi tách trà, xả stress sau một ngày đầy mệt mỏi, tận hưởng cái không gian xanh mát, mượt mà, thoáng đãng. Có người chỉ thích dạo quanh hồ để thõa mái hít hà những luồng khí trong trẻo. Nhưng để đi hết được một vòng Hồ Tây là một điều chẳng dễ dàng gì. Qua nhiều năm lịch sử, hồ có nhiều tên gọi khác nhau. Như: Bến Lâm Ấp, bến Nước, đầm Xác Cáo, hồ Lãng Bạc, hồ Kim Ngưu, hồ Dâm Đàm, Đoài Hồ. Mỗi một tên gọi đều liên quan đến những câu chuyện, truyền thuyết, huyền thoại. Về khoa học, địa lý, Hồ Tây là hồ ngoại sinh, có dạng lòng chảo, hình thành chủ yếu là do tác dụng xâm thực của sông hồng. Đầm Xác Cáo Đầm Xác Cáo có lẽ là tên gọi xưa nhất của Hồ Tây. Tên gọi này gắn với sự tích con Hồ ly tinh chín đuôi. Sự tích kể rằng nơi đây ngày xưa là rừng rậm hoang vu và nhiều gò núi. Ở đó, có một con Hồ ly tinh chuyên tác oai tác quái quấy nhiễu đời sống dân lành. Nhưng việc diệt trừ Hồ ly tinh được kể trong các câu chuyện dân gian cũng khác nhau. Một chuyện cho rằng Lạc Long Quân vì thương xót con dân nên đã dâng nước biển dìm chết con cáo và tạo ra hồ nước. Một câu chuyện khác kể về Huyền Thiên cũng vì thương xót và nghe lời cầu khẩn của dân chúng mà diệt trừ con cáo. Việc diệt trừ xảy ra ác liệt, khi con cáo bị diệt xong đã tạo ra một hồ nước. Từ đó, hồ có tên là Đầm Xác Cáo. Hồ Kim Ngưu Hồ Kim Ngưu gắn với sự tích con trâu vàng. Song sự tích này được kể khác nhau. Một câu chuyện kể rằng con Kim ngưu khi nghe tiếng chuông của ông Khổng Lồ ngỡ là tiếng trâu mẹ gọi, bèn chạy từ Trung Quốc sang đến bên quả chuông lớn. Nó cứ loay hoay tìm quanh quả chuông, rút cuộc làm đất lở khiến cả quả chuông và mình sụt xuống tạo thành một vực sâu. Về sau mưa làm ngập lụt tạo thành hồ, cả quả chuông lẫn con trâu vàng đều không vớt được. Câu chuyện khác thì kể rằng ngày xưa ở Núi Tiên Du có con Trâu vàng bị một Pháp sư yểm bùa, vùng dậy chạy. Chạy mãi, chạy mãi qua mỗi nơi, bằng sức mạnh của mình, nó đều tạo ra các dấu tích. Cuối cùng nó chạy tới đầu Sông Tô gặp một hồ nước, nó nhao xuống bơi lội thỏa thích rồi ở luôn trong lòng như đứa con lưu lạc vừa tìm được mẹ. Từ đó, Hồ Tây có tên là Hồ Kim Ngưu và dân gian còn truyền tụng câu: Trâu vàng ẩn mãi giữa hồ, Nước dù cạn vẫn mịt mù tăm hơi. Hồ Lãng Bạc Theo Tây Hồ chí thì sau khi dập tắt cuộc khởi nghĩa bi hùng của Hai Bà Trưng, Tướng quân Mã Viện với tư cách là kẻ thôn tính văn hóa đã gọi Hồ Tây là Lãng Bạc với ý nghĩa hồ đầy sóng vỗ. Tên gọi này thể hiện ý nghĩa rõ nhất vào những ngày giông bão, mặt hồ rộng, sóng nước nổi lên ầm ầm, tạo ra một cảnh hồ hùng tráng và nên thơ. Hồ Dâm Đàm Dâm Đàm có nghĩa là đầm tràn đầy nước, muốn nói tới sự rộng lớn, mênh mang sóng nước của Hồ Tây. Tuy nhiên theo cố GS Trần Quốc Vượng thì tên Dâm Đàm có từ thời Lý - Trần, với nghĩa là Hồ mù sương với huyền tích Lý Nhân Tông ngồi thuyền Mục Thận xem đánh cá, gặp sương mù, có thuyền tới gần, trên có hổ, Mục Thận quăng lưới bắt hổ, hóa ra đó là Thái sư Lê Văn Thịnh, và ông cho rằng Dâm Đàm nghĩa là Hồ mù sương. Câu chuyện về vụ Thái sư Lê Văn Thịnh mưu hại Vua Lý Nhân Tông được các sách ghi chép khác nhau. Sách Việt điện u linh, Truyện Thái uý Trung duệ Vũ Lượng Công của Lý Tế Xuyên có đoạn viết: "Trong thời Lý Nhân Tông, quan Thái sư Lê Văn Thịnh nuôi được một tên gia nô người Đại Lý, có thuật lạ đọc thần chú biến được thành hổ báo. Lê Văn Thịnh cố dỗ dành tên gia nô dạy pháp thuật cho mình, sau khi học được rồi thì Văn Thịnh lập mưu giết chết tên gia nô và định dùng nó để hại Vua cướp ngôi." Vụ án Đâm Đàm này là một câu chuyện hoang đường, nó chỉ có thể là một màn nguỵ trang cho một sự tranh giành quyết liệt trong nội bộ triều đình nhà Lý vào cuối Thế kỷ XI và sự thất thế dẫn đến việc buộc phải ra đi của Lê Văn Thịnh. Hoặc giả, nó phản ánh về sự mâu thuẫn tôn giáo, tư tưởng xã hội của thời đại. Sử sách không thấy ghi mâu thuẫn triều chính của Lê Văn Thịnh nên khi vụ án Dâm Đàm xảy ra, ông bị xích sắt đóng cũi và bị đày lên thượng nguồn Sông Thao nhưng không bị giết vì nhà Vua đã nghĩ đến công lao của ông. Còn Mục Thận làm nghề chài lưới đánh bắt cá ở Dâm Đàm, nhờ có công cứu Vua Lý Nhân Tông nên được phong làm Đô uý và được ban đất quanh hồ làm thực ấp. Khi mất, ông được lập đền thờ ở Làng Võng Thị, truy phong tước Thái úy Duệ Lượng Công. Tây Hồ Sử sách ghi rằng: Đến năm 1573, để tránh tên húy của Vua Lê Thế Tông là Duy Đàm, người ta đổi là Tây Hồ. Cái tên Tây Hồ có từ đó, ngoài lý do trên, có lẽ việc đặt tên này nhằm sánh với phương Bắc, vì ở Trung Quốc cũng có Tây Hồ nổi tiếng ở Hàng Châu. Việc đặt tên các địa danh, sông hồ của Việt Nam theo Trung Quốc là chuyện bình thường. Nhiều người giải thích rằng Tây Hồ nghĩa là hồ phía Tây Kinh thành, e không hợp lý. Cũng như Hà Đông, nếu xem bản đồ Hà Nội, thì địa danh trên không đúng theo phương vị Đông và Tây. Tây Hồ là cách đọc Hán Việt của Hồ Tây, và Hồ Tây đã trở thành cái tên gần gũi, lâu dài, nên thơ nhất đối với người Hà Nội cũng như nhân dân cả nước. Đoài Hồ Chúa Trịnh Tạc được phong tước Tây Vương, nên địa danh có chữ Tây bị ông ra lệnh đổi thành Đoài - quẻ Đoài thuộc phương Tây – ý nghĩa như nhau, âm và chữ khác nhau - như Sơn Tây gọi thành Xứ Đoài, bởi vậy nên Tây Hồ được gọi là Đoài Hồ. Nhưng cái tên Đoài Hồ không được dùng lâu, đến hết đời Chúa Trịnh Tạc dân ta gọi lại như cũ là: Hồ Tây. Từ một chốn rừng rậm, đầm lầy hoang hóa, qua công khai khẩn, xây dựng của biết bao nhiêu thế hệ, các triều đại lịch sử. Hồ Tây bây giờ đã trở thành một thắng cảnh văn hóa – du lịch nổi tiếng của Thủ Đô. Xem thêm: Đăng bài kiếm tiền tại nhà Cách kiếm tiền miễn phí trên Binance