Lực Lượng Lao Động Là Gì?

Thảo luận trong 'Cuộc Sống' bắt đầu bởi Nguyệt Lam, 22 Tháng bảy 2021.

  1. Nguyệt Lam

    Nguyệt Lam Active Member

    Bài viết:
    Tìm chủ đề
    1,002
    Lực lượng lao động là gì?

    Theo Tổ chức Lao động Quốc tế, lực lượng lao động dân sự của một quốc gia là tất cả các cá nhân trong một quốc gia đáp ứng các tiêu chí sau:

    [​IMG]

    • Ở độ tuổi từ 16 đến 64 tuổi
    • Hiện đang có một công việc hoặc đang tìm kiếm một công việc
    • Không phục vụ trong quân đội quốc gia
    • Không theo đuổi các nghiên cứu toàn thời gian tại một cơ sở học thuật
    • Chưa nghỉ hưu

    Một cá nhân sẵn sàng làm việc, đáp ứng các giới hạn về độ tuổi và quân đội, và người hiện đang tìm kiếm việc làm được coi là "thất nghiệp".

    Làm thế nào chúng ta có thể giám sát lực lượng lao động?

    Các chính phủ và các nhà kinh tế thường đề cập đến ba chỉ số hiệu suất chính (KPI) để đánh giá sức mạnh của lực lượng lao động của một quốc gia:

    Tỷ lệ thất nghiệp

    Tỷ lệ thất nghiệp được tính bằng cách chia số người thất nghiệp trong một quốc gia cho tổng lực lượng lao động hiện có của quốc gia đó. Số lượng cá nhân được coi là thất nghiệp phải đáp ứng các tiêu chí mô tả ở trên, và thất nghiệp do các yếu tố chu kỳ, cơ cấu hoặc ma sát. Phương trình để tính tỷ lệ thất nghiệp là:

    [​IMG]

    Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp đi kèm với một số thiếu sót và có những cuộc tranh luận đang diễn ra về việc ai nên được tính là "thất nghiệp". Ví dụ, có những cuộc tranh luận về việc liệu những người làm việc bán thời gian có nên được đưa vào tính toán hay không. Các lập luận để bao gồm nhóm nói trên nêu rõ rằng những cá nhân đó thất nghiệp về mặt kỹ thuật và nên được đưa vào nếu họ đáp ứng các tiêu chí được liệt kê ở trên. Những người phản đối cho rằng cơ hội việc làm bán thời gian thường phải đối mặt với tỷ lệ thay đổi rất cao và do đó không phải là nguồn việc làm dài hạn đáng tin cậy.

    Một điểm gây tranh cãi khác đối với việc sử dụng tỷ lệ thất nghiệp là người lao động không được khuyến khích. Loại này đề cập đến những người lao động không có việc làm và không thể tìm được việc làm phù hợp do các yếu tố chu kỳ hoặc cơ cấu. Kết quả là, nhóm trở nên rất mất tinh thần và không còn tìm kiếm việc làm, điều này làm tăng số lượng thất nghiệp một cách giả tạo. Vì quy mô của nhóm khác nhau khá lớn nên khó có thể tạo ra các số liệu đáng tin cậy và rất khó loại trừ nhóm khỏi tính toán thất nghiệp.

    Tuy nhiên, người ta thường nhất trí rằng tỷ lệ thất nghiệp cao là tín hiệu của suy thoái kinh tế, trong khi tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn nói chung là dấu hiệu của điều kiện kinh tế thịnh vượng. Tuy nhiên, thất nghiệp trải qua một khoảng thời gian trễ, có nghĩa là những thay đổi trong trạng thái kinh tế cần có thời gian để được phản ánh trong chỉ số.


    Tỷ lệ việc làm trên dân số

    Tỷ số việc làm trên dân số (EP Ratio) đo lường mức độ tham gia của dân thường trong độ tuổi lao động vào thị trường lao động. Theo Tổ chức Lao động Quốc tế, một công dân trong độ tuổi từ 16 đến 64 được coi là trong độ tuổi lao động. Tỷ lệ có thể được tính theo công thức sau:

    [​IMG]

    Tỷ lệ EP cũng có thể được tính toán cho các độ tuổi cụ thể để định lượng năng suất của các nhóm tuổi nhất định. Ví dụ, một tỷ lệ EP cho dân thường từ 16 đến 25 tuổi sẽ đo lường mức độ tham gia của người lao động mới vào thị trường lao động.


    [​IMG]



    Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động

    Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động (tỷ lệ LFP) được sử dụng để đo lường mức độ tham gia của lực lượng lao động trong một nền kinh tế nhất định. Tỷ lệ LFP có thể được tính bằng công thức sau:

    [​IMG]

    Trong đó "tổng lực lượng lao động tiềm năng" bao gồm tất cả thường dân đã chọn không tham gia lực lượng lao động do:


    • Nghĩa vụ quân sự tình nguyện
    • Nghỉ hưu sớm
    • Ghi danh vào một cơ sở giáo dục sau trung học
    • Khuyết tật hoặc ốm đau
    • Lý do cá nhân

    Các chỉ số kinh tế là gì?

    Một chỉ số kinh tế là một thước đo được sử dụng để đánh giá, đo lường và đánh giá tình trạng tổng thể của nền kinh tế vĩ mô. Các chỉ số kinh tế thường được cơ quan chính phủ hoặc tổ chức tình báo doanh nghiệp tư nhân thu thập dưới hình thức điều tra dân số hoặc khảo sát, sau đó được phân tích thêm để tạo ra chỉ số kinh tế.

    Các nhà phân tích tài chính và nhà đầu tư theo dõi các chỉ số kinh tế vĩ mô vì nền kinh tế là một nguồn rủi ro có hệ thống ảnh hưởng đến sự tăng trưởng hoặc suy giảm của tất cả các ngành và công ty.


    Chỉ số kinh tế chính là gì?



    Tổng sản phẩm trong nước (GDP)

    Các Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) được chấp nhận rộng rãi như là các chỉ số chính của hiệu suất kinh tế vĩ mô. GDP, với tư cách là một giá trị tuyệt đối, cho thấy quy mô tổng thể của một nền kinh tế, trong khi những thay đổi trong GDP, thường được đo bằng tốc độ tăng trưởng GDP thực tế, cho thấy sức khỏe tổng thể của nền kinh tế.

    GDP bao gồm bốn thành phần, đó là:


    1. Tiêu dùng
    2. Đầu tư
    3. Chi tiêu của Chính phủ
    4. Xuất khẩu ròng

     
Đang tải...