Màu hường là màu như thế nào? Màu hường là tên gọi khác của màu hồng nhạt, nhẹ nhàng và dễ nhìn hơn màu hồng. Tại sao lại gọi là màu hường? Hồi đó vua Tự Đức lên ngôi, tên húy là Hồng Nhậm. Do vậy, để tránh gọi tên tục của vua, chiếu ban xuống đổi Hồng thành Hường, Nhậm thành Nhiệm. Tính cách người thích màu hường Màu hồng, đó là màu sắc của sự mơ mộng, bay bổng và lãng mạn. Màu hồng tượng trưng cho cuộc sống viên mãn, hạnh phúc tràn đầy tốt đẹp. Về cuộc sống và công việc Người thích màu hồng luôn có hướng nhìn cuộc sống theo hướng tích cực. Họ luôn luôn vui vẻ, lạc quan, lãng mạn theo một cách tự nhiên nhất. Họ luôn tìm kiếm những niềm vui, niềm hạnh phúc, may mắn trong những thời điểm dù là khó khăn nhất. Kể cả trong những nỗi đau khổ, họ cũng không tuyệt vọng, không ngừng tìm kiếm, luôn tự tạo cho mình lăng kính tuyệt đẹp để nhìn ra thế giới. Họ cũng là tuýp người thông minh, chăm chỉ và biết sống vì người khác. Người thích màu hồng, khi tiếp xúc với bất cứ ai, bấy cứ điều gì, cũng truyền cho những người đối diện những cảm xúc tốt đẹp nhất, hoặc sẽ bù đắp cho người đối diện những gì mà họ còn thiếu. Trong công việc, họ luôn tự tìm ra cách tiếp cận và giải quyết vấn đề một cách tốt nhất cho riêng mình bằng những cách không ồn ào nhất. Thê nên, việc họ bị đáng giá là khá chậm so với mọi người không có gì là lạ, họ chỉ muốn mọi thứ theo cách hoàn hảo nhất mà thôi. Nhưng trên thực tế, vì đôi khi lạc quan thái quá nên họ chưa thực hiện được hoàn hảo mọi thứ. Họ cũng khá nhút nhát khi giao tiếp nhưng cũng khá nhạy bén khi tiếp cận đối phương. Về tình yêu: Tình yêu của họ thường lãng mạn, hòa bình, ít xảy ra cãi vã. Vì những người thích màu hồng luôn luôn làm người mình yêu hài lòng và làm dịu mọi xung đột giữa 2 người. Nhưng người thích màu hồng thì thường gây nên rắc rối vì việc giữ bí mật qua nhiều. Những anh chàng thích màu hồng thường là những tay cua gái siêu hạng. MÀU HƯỜNG và những khía cạnh khoa học Các họa sĩ thường quan tâm đến tính trường tồn của các tác phẩm họ tạo ra. Nếu một bức tranh được quyết định trở thành vật gia truyền hoặc – với những họa sĩ may mắn – được treo trong bảo tàng, rõ ràng các tác phẩm phải có khả năng chống chọi lại với thử thách của thời gian. Một trong những vấn đề các họa sĩ phải đối mặt từ thuở sơ khai của lịch sử nghệ thuật đó là tính bền vững của màu trong tranh. Màu vẽ đầu tiên ở thời đồ đá là màu đất tự nhiên. Vàng và vàng đất đỏ được tạo ra bởi một phần của đất sét tạo thành bởi quá trình tự nhiên. Đây là một trong những màu bền nhất. Chúng ta có thể chứng thực bằng các bức tranh trong các hang động 30.000 năm tuổi có màu sắc vẫn còn đến ngày nay. Những màu đất phổ biến và không đắt tiền vẫn còn nhiều trong bảng màu của các họa sĩ cho tới thế kỉ 18 khi hóa học hiện đại bắt đầu khám phá các màu có thể được tạo thành trong quá trình công nghiệp. Trong khi các họa sĩ thời Trung Cổ và Phục Hưng đã tạo ra được một số ít màu sắc độ cao như đỏ thẫm và xanh dương, thường rất đắt và làm từ đá quý. Ví dụ màu xanh Ultramarine nguyên bản (xanh biển đậm) đã từng được làm từ đá Lapis Lazuli. Toàn bộ bức tranh được tạo ra quanh một vùng xanh huyền diệu được dành riêng cho ảnh Chúa Jesus hoặc Đức mẹ Mary. Cho tới khi màu đỏ Cadmium xuất hiện, màu đỏ son Trung quốc là tông màu đỏ thẫm duy nhất có sẵn, mặc dù màu này đắt và độc bởi có chứa thủy ngân. Tới thế kỉ 19, hóa học hiện đại đã tạo ra một loạt các dải màu mới và có độ bão hòa cao. Một số màu, như Cadmium và màu xanh Cobalt, hóa ra rất bền vững và vẫn được sử dụng cho tới ngày nay. Tuy nhiên các màu khác đã không còn được các họa sĩ ưa chuộng vì chúng không bền màu. Một thuật ngữ mà các họa sĩ và nhà hóa học hay dùng để mô tả màu sắc đó là tính nhanh phai màu. Một ví dụ đáng chú ý đó là màu đỏ thắm Alizarin sẽ phai dần sang gần như màu trắng chỉ trong vài thập kỉ nếu phơi sáng dưới ánh nắng mặt trời. Chẳng có gì ngạc nhiên vì màu đỏ Alizarin là màu tím đỏ. Cho tới giữa thế kỉ 20 không một màu tím đỏ bền màu nào được tạo ra. Tại sao điều này lại quan trọng? Dưới đây là bức ảnh quang phổ thể hiện các dải màu tạo thành ánh sáng trắng. Bạn sẽ thấy rằng ở chỗ rìa màu xanh, ngay trước khi ra khỏi dải màu mà mắt con người có thể cảm nhận được, nó vừa chạm đến màu tím xanh. Vượt ra ngoài là bước sóng tia cực tím mà mắt chúng ta không thể thấy, sau đó là tia X, tia Gamma. Vượt qua dải màu đỏ của quang phổ là tia hồng ngoại, vi sóng, sóng radio. Nếu bạn nhìn cẩn thận bạn sẽ thấy rằng có một loại màu không có trong quang phổ tự nhiên.. đó là màu tím đỏ hay Magenta (màu hường). Qua quá trình tiến hóa, mắt chúng ta có thể cảm nhận được các bước sóng ánh sáng khác nhau như là các màu khác nhau. Một bước sóng xác định tác động vào võng mạc và tạo ra cảm giác về màu cam. Bước sóng ngắn hơn một chút ta thấy màu vàng. Và ngắn hơn chút nữa ta thấy màu xanh lá.. Những bước sóng ánh sáng khác nhau có thể đo đạc bằng các thiết bị khoa học bởi vì chúng tồn tại bên ngoài chúng ta. Tuy nhiên, việc chúng ta có thể thấy màu tím đỏ hay màu hường chỉ hoàn toàn là hình ảnh được tạo thành trong não chúng ta bởi vì không có ánh sáng màu đỏ tím. Khi chúng ta nhìn một màu hường sáng, hoặc màu hường của thỏi son môi, những màu đó là do não chúng ta phiên giải như là hỗn hợp của ánh sáng xanh dương và ánh sáng đỏ từ hai đầu đối lập nhau của quang phổ. Tôi luôn thấy thú vị với một màu phối gặp phải vấn đề về tính bền màu là màu tím đỏ.. một phần của dải quang phổ thực sự không tồn tại. May mắn cho giới họa sĩ đương đại, có những bước tiến vượt bậc từ những năm 1950 trong việc tạo ra màu tím đỏ không phai.. Cuối cùng, màu được biết đến nhiều nhất trong số những màu này là màu Quinacridone bắt đầu từ tím tới màu hường tới màu đỏ và tất cả đều bền màu trong khoảng 500 năm Lần tới nếu bạn ngưỡng mộ màu sắc của hoa cúc sao nháy (pink cosmos) – có màu hường, hãy nhớ rằng những bông hoa này đang hấp dẫn chúng ta đơn giản bằng cách tác động vào võng mạc và tạo ra cảm nhận về màu sắc trong não chúng ta chứ màu này không hề tồn tại trong quang phổ tự nhiên. Nguồn: Bookhunter