Ngôn Ngữ Cơ Thể Có Phổ Biến Không?

Thảo luận trong 'Cuộc Sống' bắt đầu bởi Nguyệt Lam, 24 Tháng sáu 2021.

  1. Nguyệt Lam

    Nguyệt Lam Active Member

    Bài viết:
    Tìm chủ đề
    1,002
    Ngôn ngữ cơ thể có phổ biến không?

    Năm 1967, Albert Mehrabian xuất bản một bài báo nghiên cứu đột phá thiết lập quy tắc 7% -38% -55%. Quy tắc này nêu rõ rằng, trong việc giải mã các thông điệp về cảm giác tích cực và tiêu cực, chỉ 7% kết luận của chúng ta đến từ những lời nói của người mà chúng ta đang lắng nghe. 38% đến từ giọng nói, và phần lớn - 55% - đến từ ngôn ngữ cơ thể.

    [​IMG]

    Mặc dù những con số được trích dẫn trong nghiên cứu của Mehrabian còn gây tranh cãi, nhưng vẫn được nhiều người đồng ý rằng các tín hiệu phi ngôn ngữ đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định ý nghĩa trong các vấn đề giao tiếp cảm xúc. Vì vậy, hãy tưởng tượng một người nói, "Tôi cảm thấy tuyệt vời," nhưng giọng điệu của họ không bằng phẳng. Họ tránh giao tiếp bằng mắt và thể hiện ngôn ngữ cơ thể khép kín, chẳng hạn như vai cúi xuống và đầu nghiêng xuống. Tất cả những thông điệp không lời đó có xu hướng thay thế thông điệp bằng lời nói. Cuối cùng, chúng tôi tin rằng người đó không "cảm thấy tuyệt vời", mặc dù họ vừa nói rằng họ làm như vậy.

    Rõ ràng là ngôn ngữ cơ thể đóng một vai trò quan trọng trong giao tiếp. Nhưng liệu đôi mắt cụp xuống và đôi vai rũ xuống đó có thể hiện nỗi buồn với một người nói Mixtec giống như cách họ nói với một người nói tiếng Anh? Ngôn ngữ cơ thể có phổ biến không?

    [​IMG]

    Bảy biểu hiện thông dụng

    Vào năm 2017, một nhóm các nhà nghiên cứu từ Đại học Dartmouth đã tiến hành một nghiên cứu để xác định mức độ phổ biến của các biểu hiện cảm xúc cụ thể trên khuôn mặt. Họ đến một vùng xa xôi hẻo lánh ở vùng cao nguyên Campuchia, nơi một nhóm người chưa biết chữ được gọi là Kreung sống biệt lập. Điều này rất quan trọng đối với cuộc điều tra, vì các nhà nghiên cứu muốn chắc chắn rằng khả năng tạo ra hoặc nhận ra các nét mặt cụ thể của đối tượng sẽ không bị ảnh hưởng bởi các tương tác với các nhóm bên ngoài.

    Với sự giúp đỡ của một thông dịch viên, một nghệ sĩ nổi tiếng của điệu nhảy và âm nhạc Kreung đã được yêu cầu diễn ra năm tình huống đại diện cho năm cảm xúc khác nhau: Tức giận, ghê tởm, sợ hãi, hạnh phúc và buồn bã. Các bản ghi video không âm thanh đã được thực hiện và sau đó được trình chiếu cho 28 sinh viên và nhân viên của Dartmouth. Họ được yêu cầu xác định cảm xúc từ một danh sách các lựa chọn khả thi. Kết quả cho thấy tỷ lệ thành công 85% - cao hơn nhiều so với dự kiến một cách tình cờ. Điều này cho thấy rằng một số biểu hiện cảm xúc trên thực tế có thể là phổ biến.

    Những phát hiện này phản ánh kết quả của nhà tâm lý học người Mỹ nổi tiếng Paul Ekman, người đi tiên phong trong việc nghiên cứu mối quan hệ giữa cảm xúc và nét mặt. Ekman đã tạo ra hơn 10.000 bức ảnh về các biểu cảm trên khuôn mặt. Ông đã cho những người ở 11 nền văn hóa trước khi biết chữ của châu Phi bị cô lập, cũng như 20 nền văn hóa phương Tây. Ông phát hiện ra rằng hơn 90% tất cả những người tham gia đều có thể xác định được các cảm xúc như hạnh phúc, ghê tởm và khinh thường. Cuối cùng, ông đã phát triển một chỉ số của bảy cảm xúc mà ông cho là phổ biến: Hạnh phúc, buồn bã, ngạc nhiên, sợ hãi, ghê tởm, tức giận và nghỉ ngơi.

    Các biến thể văn hóa

    Mặc dù luận điểm của Ekman phần lớn được chấp nhận, nhưng vẫn còn rất nhiều sự khác biệt trong cách ngôn ngữ cơ thể được sử dụng để thể hiện ý tưởng và cảm xúc nằm ngoài 'số bảy phổ quát.'Dưới đây là tổng quan về một số khác biệt có thể gặp xung quanh thế giới:

    Tay: Cử chỉ tay rất khác nhau giữa các nền văn hóa. Làn sóng tạm biệt được sử dụng ở Hoa Kỳ là một cách báo hiệu 'không' ở nhiều nơi ở châu Âu và châu Mỹ Latinh. Cong ngón trỏ với lòng bàn tay ngửa được sử dụng để chào tạm biệt ở Ý, mặc dù người Mỹ thường hiểu nó có nghĩa là 'lại đây.'Ở Trung Quốc và Đông Á, cử chỉ tương tự này có thể được sử dụng để vẫy gọi chó, nhưng nó sẽ được coi là cực kỳ bất lịch sự khi sử dụng nó với mọi người. Ở Philippines, hệ lụy của nó nghiêm trọng đến mức có thể dẫn đến bị bắt.

    Giao tiếp bằng mắt: Ở phương Tây, giao tiếp bằng mắt lâu dài là tín hiệu của sự tự tin và chú ý. Tương tự như vậy, việc thiếu giao tiếp bằng mắt có thể bị coi là không quan tâm và do đó bị coi là thô lỗ. Ở những nơi như Tây Ban Nha, Hy Lạp và các nước Ả Rập, giao tiếp bằng mắt có xu hướng lâu dài và mãnh liệt hơn. Mặc dù ở các nước Ả Rập, tiêu chuẩn này chỉ áp dụng cho những người cùng giới tính và bất cứ điều gì khác hơn là nhìn thoáng qua giữa nam và nữ đều bị coi là không phù hợp. Trong khi đó, ở nhiều quốc gia ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh, tránh giao tiếp bằng mắt là một cách trì hoãn đối với những người lớn tuổi. Giao tiếp bằng mắt thường xuyên ở những quốc gia này có thể được coi là đối đầu.

    Cái đầu: Mặc dù gật đầu được coi là một tín hiệu gần như phổ biến cho sự đồng ý hoặc chấp thuận, nhưng vẫn có một vài ngoại lệ đáng chú ý. Ở Hy Lạp và Bulgaria, cử chỉ này chỉ ra điều ngược lại - một chữ 'không' rõ ràng.

    Tai: Ở Bồ Đào Nha, mọi người giật nhẹ dái tai để biểu thị rằng họ đang thưởng thức món ăn của mình. Ở Ý, cử chỉ này có ý nghĩa tình dục, và ở Tây Ban Nha, nó có nghĩa là ai đó không trả tiền cho đồ uống của họ. Ở Hoa Kỳ, di chuyển ngón trỏ của một người theo chuyển động tròn bên cạnh tai được sử dụng để gợi ý rằng ai đó bị điên hoặc kỳ lạ.

    Mũi: Ở phương Tây, việc xì mũi một cách thô bạo vào khăn tay hoặc khăn giấy là điều có thể chấp nhận được, nhưng ở Nhật Bản, điều này không được chấp nhận. Người Anh cũng dùng ngón trỏ vỗ vào mũi để biểu thị rằng có điều gì đó là bí mật, trong khi cử chỉ tương tự này có nghĩa là 'hãy coi chừng' ở Ý.

    Cánh tay: Cử chỉ cánh tay đi kèm với diễn ngôn ở nhiều quốc gia, bao gồm cả Ý và Hoa Kỳ. Tuy nhiên, người Bắc Âu có thể thấy những cử chỉ như vậy là kịch tính và thiếu chân thành, trong khi người Nhật coi động tác dang rộng cánh tay là bất lịch sự.

    Chân: Mặc dù việc ngồi vắt một chân qua chân kia là điều bình thường ở Hoa Kỳ và một số khu vực ở châu Âu, ở châu Á và Trung Đông, việc phô bày đế giày của bạn bị coi là thiếu tôn trọng. Tương tự như vậy, ngồi khoanh chân hoặc kiểu bánh quy trước mặt người lớn tuổi hoặc địa vị cao hơn của Nhật Bản có thể khiến họ xúc phạm.

    Tại sao một số cử chỉ là hành động phổ biến và những cử chỉ khác là hành động văn hóa?

    [​IMG]



    Nhìn chung, chúng tôi dường như nhận thấy rằng các biểu hiện cảm xúc, chẳng hạn như hạnh phúc, buồn bã và ghê tởm, được tạo ra thông qua các cơ trên khuôn mặt, có xu hướng phổ biến hơn nhiều so với các biểu hiện phi cảm xúc, chẳng hạn như đồng ý, không đồng ý hoặc chăm chú, liên quan đến các bộ phận khác của cơ thể một mình hoặc kết hợp với khuôn mặt. Điều này cho thấy những biểu thức phổ biến này có thể được mã hóa về mặt sinh học, điều này được hỗ trợ bởi thực tế là cả trẻ sơ sinh, những người còn quá nhỏ để học chúng thông qua bắt chước, cũng như những người mù, sử dụng các biểu thức theo cách giống như người lớn và nhìn thấy mọi người. Ở cả hai quần thể, vị đắng sẽ gợi lên cái nhìn ghê tởm và cảm giác đau đớn sẽ gây ra biểu hiện của sự thống khổ. Tuy nhiên, khi thế giới trở nên toàn cầu hóa hơn và việc đi lại dễ tiếp cận hơn, bạn nên tìm hiểu những điều nên làm và không nên của ngôn ngữ cơ thể bất cứ khi nào bạn đi du lịch đến một quốc gia mới hoặc gặp gỡ một nền văn hóa mới.
     
    visa5s han quoc thích bài này.

Chia sẻ trang này

Đang tải...