Tên đề tài: Tìm hiểu về dân tộc Nùng ở phía Bắc Việt Nam A. LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ, trong đó có 54 dân tộc cư trú đan xen nhau và phân bố rải rác ở các vùng miền của đất nước. Có thể nhận thấy mỗi dân tộc là một bức tranh đầy màu sắc, đa dạng không chỉ về ngôn ngữ mà còn cả những nét đặc trưng về truyền thống văn hóa, lịch sử hình thành phát triển.. "Dân tộc là một tập đoàn người ổn định và các tập đoàn người tương đối ổn định dựa trên mối liên hệ chung về khu vực cư trú, tiếng nói, sinh hoạt kinh tế, các đặc điểm sinh hoạt văn hóa. Trên cơ sở những mối liên hệ đó, mỗi dân tộc còn có một ý thức về thành phần dân tộc và tên gọi riêng của mình." (Viện văn hóa dân tộc, Nhà xuất bản Khoa học xã hội & Nhân văn). Dân tộc Nùng (tên gọi khác là Xuồng, Giang, Nùng An, Nùng Lài, Phần Sinh, Nùng Cháo, Nùng Inh, Quý Rịn, Nùng Dín, Khen Lài) thuộc nhóm ngôn ngữ Tày-Thái của hệ ngôn ngữ Thái-Kađai. Người Nùng sinh sống tập trung ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai, Hà Giang, Bắc Kạn, Bắc Giang, Tuyên Quang, Quảng Ninh, ngoài ra còn ở Thành phố Hồ Chí Minh, Lâm Đồng, Đắc Lắc. Người Nùng có quan hệ gần gũi với người Tày và người Choang sống dọc biên giới Trung Quốc. Riêng đối với địa bàn Trung Quốc, người Nùng và người Tày được xếp vào dân tộc Choang. Vì vậy mà thủ lĩnh Nùng Trí Cao của người Nùng cũng được coi là thủ lĩnh của người Choang. Tuy không phải là dân tộc chiếm số lượng đông nhất trong 53 dân tộc thiểu số nhưng dân số người Nùng ngày càng gia tăng đáng kể (Năm 1989 có 705.709 người, đến năm 2003 là 914.400người). Điều đó cho thấy, sự xuất hiện của dân tộc này đóng một vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển chung của toàn dân tộc. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách tổng quát nhất về dân tộc Nùng sẽ có ý nghĩa to lớn đối với việc tìm hiểu sự ra đời, phát triển và biến đổi cũng như giúp chúng ta nắm bắt được những kiến thức cơ về tộc người Nùng trong lịch dân tộc và trong thời đại ngày nay. B. PHẦN NỘI DUNG Chương I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN: Hiện nay dân tộc Nùng đã có mặt hầu khắp các tỉnh Bắc đến Nam đất nước Việt Nam chúng ta, nhưng tập trung nhiều nhất vẫn ở vùng Việt Bắc. Nên ở đây tôi chỉ đưa ra những đặc điểm cở bản về điều kiện tự nhiên nơi mà đồng bào Nùng chiếm số lượng đông nhất, và đó cũng là địa bàn cư trú chính của tộc người này hiện nay. (Việt Bắc). 1. Đất đai: Vì ở vùng núi cao nên đất đai ở Việt Bắc chủ yếu là đất đất Feralit chiếm diện tích cao nhất. Song tùy điều kiện mà bị phân hóa thành các kiểu khác nhau từ đá mẹ, ví dụ như có đất feralit vàng đỏ, feralit vàng đỏ có mùn, feralit đỏ nâu, đất sialit-feralit nâu vàng.. Ngoài ra còn có đất alit mùn núi cao tỉ lệ nhỏ và đất phù sa ở dọc các thung lũng sông bồn địa. 2. Địa hình và khí hậu: Việt Bắc là vùng núi cao nằm trong vĩ tuyến 210 – 23022 Vĩ Bắc, môi trường tự nhiên mang tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa, có dấu hiệu của vùng chuyển tiếp từ nhiệt đới đến Á nhiệt đới. Địa hình kiến trúc dạng cánh cung xen kẻ giữa các cánh cung là những dải rộng với các dòng sông. Tại đây các dòng sông đều mở rộng lòng với các bãi bồi, thềm đất xếp tầng thành những dãy song song với lòng sông đây là điều kiện khai thác nông nghiệp. Nằm ở Đông Bắc nước ta, lại có địa hình cánh cung mở ra đón gió nên Việt Bắc là nơi tiếp nhận và ảnh hưởng sớm nhất của gió mùa đông bắc và cùng với hệ quả của quy luật đai cao nên yếu tố Á nhiệt đới núi cao phần trội hơn yếu tố nhiệt đới. Nhiệt độ trung bình năm từ 210 C – 230C, tổng nhiệt năm 7500 -80000 C, tùy theo độ cao và vị trí. Lượng mưa dồi dào từ 1400mm – 2700mm/năm. Có hai mùa trong năm rõ rệt. Vào mùa đông có các hiện tượng thời tiết đặc biệt như sương muối, sương giá, băng tuyết xảy ra đều gây ảnh hưởng xấu đến sản xuất và đời sống. 3. Sông ngòi - nguồn nước: Việt Bắc có 5 hệ thống sông chính gồm: Sông Thao, sông Lô, Sông Cầu, sông Thương, và sông Lục Nam hệ thống các sông chảy vào Tây Giang và các sông ở miền duyên hải. Hệ thống sông này chảy liên quan khắn khít nhau tạo một hệ thống sông ngòi trong vùng, ngoài ra còn có các hồ chứa nước. Chế dộ nước các sông phức tạp nhưng nhìn chung là lượng nước dồi dào dùng để phục vụ cho nông nghiệp và sản xuất điện.. 4. Động thực vật: Khá phong phú, tại đây có nhiều loại cây dùng lấy gỗ, làm củi và đặc biệt là dùng làm dược liệu trong y học và có nhiều loại động vật quý hiếm. 5. Tài nguyên khoán sản: Đây là vùng giàu tài nguyên khoán sản nhất nước ta. Cụ thể như: Mỏ đồng Tà Phời (Lào Cai), mỏ đồng Nậm Tia (huyện Sìn Hồ, Lai Châu), mỏ chì-kẽm Bản Bó, mỏ ba rit Nà Ke, Chè Pẻn (huyện Bảo Lâm- Cao Bằng), các mỏ titan ở khu vực Núi Chúa (huyện Đại Từ- Thái Nguyên).. Với điều kiện như trên tạo cho cư dân Nùng có nhiều khả năng kinh tế to lớn và toàn diện, phát triển một nền nông nghiệp đa cách năng xuất ổn định. Đã từ lâu ở Việt Bắc người Nùng xây dựng hệ thống ruộng bậc thang, và đây cũng là vùng giàu tài nguyên khoán sản nhất, cũng từ cổ xưa cư dân Nùng đã biết tận dụng nguồn tài nguyên năng lượng nước chảy để phục vụ đời sống và sản xuất. Chương II. NGUỒN GỐC DÂN TỘC NÙNG. 1. Ngôn ngữ và chữ viết: Ngôn ngữ: Ngôn ngữ người Nùng chỉ tồn tại ở phía đông sông Hồng nối liền với trung tâm của Việt Bắc. Tiếng Nùng và Tày có chung một nguồn gốc nhưng có sự khác biệt. Nhóm ngôn ngữ người Nùng Lòi, Nùng an, Nùng Dín mang nhiều đặc điểm riêng, nên cũng khác khá xa so với người bản địa. Bộ phận này phức tạp đến mức nhiều khi người của các nhóm Nùng nhưng cũng không hiểu nổi tiếng nói của nhau. Chữ viết: Giai đoạn cổ đại người Nùng không có chữ viết, đến giai đoạn cận đại (từ thế kỷ XVII) người Nùng dùng chữ Nôm gọi là chữ Nôm Nùng, thời kỳ hiện nay người Nùng vừa chữ Nôm (Nùng) và vừa dùng chữ La Tinh. Tuy nhiên hiện nay chữ Nôm Nùng đang dần bị mai một đi bởi chữ quốc ngữ và hầu như nó không được sử dụng, chỉ có một số người già và người làm nghề thầy cúng còn biết (bài Mo Nùng còn ghi lại bằng chữ Nôm trên giấy bản. Gia phả nhiều dòng họ còn giữ lại cũng ghi bằng chữ Nôm Nùng). Cũng chính vì thời kỳ cổ đại của người Nùng chưa có chữ viết nên các sử liệu của họ vào thời kỳ này rất ít. 2. Nhân chủng. Căn cứ vào các kết quả nghiên cứu gần đây, xem xét sự hình thành các dân tộc Việt Nam trong sự hình thành các dân tộc khác trong khu vực thì có thể nói rằng tất cả các dân tộc Việt Nam đều có cùng một nguồn gốc, đó là chủng Cổ Mã Lai. Quá trình hình thành các dân tộc Việt Nam có thể chia thành ba giai đoạn: Vào thời kỳ đồ đá giữa (khoảng 10.000 năm trước đây), có một bộ phận thuộc Đại chủng Á, sống ở vùng Tây Tạng di cư về phía đông nam, tới vùng ngày nay là Đông Dương thì dừng lại. Tại đây, bộ phận của Đại chủng Á kết hợp với bộ phận của Đại chủng Úc bản địa và kết quả là sự ra đời của chủng Cổ Mã Lai (tiếng Pháp: Indonésien). Cuối thời kỳ đồ đá mới, đầu thời kỳ đồ đồng (khoảng 5.000 năm trước đây). Tại khu vực mà ngày nay là miền bắc Việt Nam, miền nam Trung Quốc (từ sông Dương Tử trở xuống), có sự chuyển biến do chủng Cổ Mã Lai tiếp xúc thường xuyên với Đại chủng Á từ phía bắc tràn xuống, sự chuyển biến này hình thành một chủng mới là chủng Nam Á (tiếng Pháp: Austro-asiatique). Thời kỳ sau đó, chủng Nam Á được chia thành một loạt các dân tộc mà các cổ thư Việt Nam và Trung Hoa gọi là Bách Việt. Ban đầu, họ nói một số thứ tiếng như: Môn-Khơ me, Việt-Mường, Tày-Thái, Mèo-Dao.. Sau này quá trình chia tách này tiếp tục để hình thành nên các dân tộc và các ngôn ngữ như ngày nay. Trong khi đó, phía nam Việt Nam, dọc theo dảiTrường Sơn vẫn là địa bàn cư trú của người Cổ Mã Lai. Theo thời gian họ chuyển biến thành chủng Nam Đảo. Như vậy người Nùng thuộc chủng Nam Á, nhóm ngôn ngữ Tày-Thái của hệ ngôn ngữ Thái-Kađai. Đặc điểm nhân học đó là: Da ngâm, mắt và tóc đen, hình tóc thẳng thường cứng, lông trên người ít phát triển, sống mũi ít dô. Vóc dáng trung bình, đầu thuộc hai loại dài trung bình và ngắn trung bình. Nếp mi góc phát triển (45% trở lên), sống mũi thấp, cánh mũi rộng trung bình, môi hơi dày, môi trên hơi dô. 3. Lịch sử tộc người Nùng: Người Nùng có chung nguồn gốc với người Tày trong lịch sử, họ cùng thuộc khối Bách Việt xưa kia. Sau khi thiết lập đường biên giới phía bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc vào thế kỷ XI, lúc kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược của nhà Tống, các cư dân Tày – Thái ở hai nước được hình thành phát triển trong điều kiện riêng. Nùng vốn là tên gọi của một trong bốn dòng họ lớn ở Quảng Tây (Trung Quốc) trở thành tên dân tộc vào khoảng thế kỷ XV. Còn ở Việt Nam tên Nùng (Nồng) đã có từ lâu đời, những người Nùng sống ở Việt Nam trước kia đã hòa vào người Tày, còn nhữn người Nùng cư trú ở những nơi đang sinh sống là mới di chuyền vào Việt Nam khoản hơn 200 năm nay. Trước đây người Nùng tự phân biệt mình và gọi là người áo đen (để phân biệt với người áo trắng là người Tày). Bên cạnh đó người Nùng còn có tên là Thổ, người bản địa và có người Nùng ở nam Trung Quốc cũng mang tên gọi là Thổ. Từ xa xưa có mối quan hệ cả trên biển và trong đất liền với các tộc người Việt, Tày, Thái.. Người Nùng thời Hai Bà Trưng họ cũng đã tham gia chống ách thống trị của nhà Hán vào những năm 40 đầu Công nguyên, ngày nay nhân dân ta ở một số nơi Việt Bắc và ở Quảng Tây (Trung Quốc) vẫn còn ghi nhớ, cũng như sau đó họ tham gia vào cuộc khởi nghĩa của Lý Bôn vào thế kỷ XI lật đổ ách thống trị nhà Lương thành lập nước Vạn Xuân. Thế kỷ XV trong cuộc kháng chiến chống quân Minh 10 năm, nhân dân Nùng đã tham gia đông đảo. Đến thế kỷ XVII, XVIII trong thời kỳ suy vong của chế độ phong kiến các vương triều thiếu kiên quyết và bất lực đối với việc bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ chủ quyền quốc gia, cuộc đấu tranh của các dân tộc Nùng gặp nhiều khó khăn, nhưng vẫn giữ vai trò quan trọng. Trong công cuộc chống quân xâm lược Thanh, nhân dân Nùng ở các địa phương hưởng ứng lời kêu gọi của Quang Trung, đã tập kích các đồn trại quân Thanh ở vùng biên giới. Dưới thời nhà Nguyễn mặc dù ra sức cũng cố chế độ phong kiến nhưng loạn lạc xảy ra liên miên, vùng cư trú của người Nùng cũng có nhiều biến động. Cuộc khởi nghĩa của Nùng Văn Vân ở Cao Bằng nổ ra, nạn cướp bóc lan tràn cư dân phiêu bạc khắp nơi. Sau khi người Pháp thiết lập bộ máy cai trị trên nước ta, trong phong trào chung chống thực dân của cả nước, nhiều nơi vùng đồng bào Nùng cũng có những cuộc vận động tổ chức đánh địch, người nùng cũng tham gia vào phong trào Việt Nam Quang Phục Hội da Phan Bội Châu phát động. Từ năm 1929 – 1930 các cơ sở cách mạng của nước ta đã đuuocj xây dựng ở Cao Bằng, Lạng Sơn, các cơ sở cách mạng đã sớm bắt rễ vào người Nùng và lan rộng ra các dân tộc miền núi khác. Tiếp đến trong những năm 1931 – 1939 khu căn cứ quân sự Cao-Bắc-Lạng-Hà-Tuyên-Thái được thành lập. Đến khi Hồ Chí Minh về Pac Pó thì vùng Tày Nùng và các dân tộc anh em dần trở thành căn cứ địa cho thắn lợi của Cách mạng tháng tám (1945) Đến năm 1979 người Nùng cũng như nhân dân Việt Bắc và Tây Bắc đã cùng nhau chiến đấu bảo vệ biên giới đất nước và kết quả họ đã vượt qua những khó khăn gian khổ, giành được những thắng lợi vẻ vang với nhiều tấm gương bám trụ kiên cương và hy sinh anh dũng. Qua đó cho ta thấy trong thời kỳ lịch sử cận hiện đại, sự phát triển của tộc người Nùng đã ở nấc thang cao hơn nhiều so với trước đây trên nhiều phương diện. Và ngay nay đồng bào Nùng sống hòa đồng vào các đồng bào khác tạo nên một thể thống nhất cho dân tộc Việt Nam. Với những đặc trưng về văn hóa, cũng như về trình độ học vấn của cư dân Nùng ngày một nâng cao rõ rệt, đội ngũ cán bộ ngành từ Trung ương đến địa phương ngày càng đông đảo, điều đó góp phần tích cực vào việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Như vậy lịch sử tộc người của cư dân Nùng là quá trình phát triển lâu dài trong sự nghiệp xây dựng, và bảo vệ đất nước, mối quan hệ qua lại giữa họ luôn là mối quan hệ thường xuyên, chặt chẽ trong xã hội mới. Chương III. ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN 1. Lễ hội: Lễ hội của người Nùng khá phong phú, tháng giêng ăn tết Nguyên đán, tháng 2 không tết, tháng 3 có tết Thanh minh (03-03 AL), tháng 5 ăn tết Đoan ngọ (05-05AL), tháng 6 có tết cúng ruộng vừa cấy xong (06-06), tháng 7 có tết trong hai ngày 14-15 AL, tháng 8 tết ăn cơm mới, tháng 9 có tết Trùng dương (09-09 AL), tháng 10 có tết cơm lam (10-10AL), tháng 11 và 12 làm bánh dầy, bánh trôi. Nhìn chung tết của người Nùng ít mang màu sắc tôn giáo, đa phần gắn chặt với vụ nông, những lễ này ít nhiều quan hệ đến những tết cổ truyền ở Nam Trung Quốc. Tết mang tính lễ hội của toàn cộng đồng là "Lồng tổng" (xuống đồng), mục đích của hội là tổ chức ngày vui hộ mặt sau một mùa làm ăn của phần lễ ra, sang phần hội nó phô bày cái đẹp, mọi sắc thái ưu việt của cộng đồng nhằm phấn đấu cho chân, thiện, mỹ của tộc người Nùng. Người Nùng tổ chức lễ này đa phần là do ảnh hưởng từ người Tày, nên cũng dễ hiểu khi có một số tộc người Nùng không tổ chức lễ hội này. 2. Tôn giáo, tín ngưỡng. Có những nét tương đồng với tôn giáo tín ngưỡng của các tộc người khác trong khu vực và trên đất nước ta. Người Nùng chịu ảnh hưởng về giáo lý cũng như lễ thức của Khổng giáo, Phật giáo, Đạo giáo.. Cũng giống người Tày người Nùng họ đều suy tôn một cá nhân làm đại diện cho toàn thể cộng đồng, người đó có thể cho là một vị thần linh đầu thai xuống trần cai trị thiên hạ, thường được gọi là con trời. Người Nùng thờ cúng tổ tiên trong nhà. Bàn thờ tổ tiên có bài vị, lư hương và được đặt vào nơi trang trọng nhất. Ngoài ra, mỗi nhà còn thờ bà mụ Mẹ Hoa (Thần bảo hộ trẻ nhỏ), mẹ cửa (thần trông nhà). Vào những ngày đầu tháng, ngày rằm họ thường đốt hương. Ngày lễ, tết có cúng chè, rượu và các món ăn. Người Nùng cúng ma sàn (phi hang chàn) và các cô hồn đầu ngõ vào dịp tết nguyên đán. Những gia đình cùng một dòng họ thì cùng chung một miếu thờthổ công, thổ địa. Các thầy tào, thầy mo theo ý tưởng từ xưa họ có khả năng tiếp xúc với các loại ma thần nên được gọi là cân thả hụng (người mắt sáng). Họ hành nghề cúng bái, cầu sự tốt lành cho người dân. Vì thế họ được mọi người kính nể. Người Nùng thờ Phi hang Chán (ma ngoài sàn), họ không có vị thần của toàn dân tộc, điều đó phản ánh quá trình hình thành và cư trú tộc người đa dạng và phức tạp. Tục thờ thần bản mệnh của cộng đồng: Trời _Đất sau được thấy là Ngọc Hoàng Thượng đế, người đứng đầu trên điên thần của Trung Quốc, được phổ biến khắp vùng. Tuy nhiên ở những vùng còn duy trì chế độ thổ ty, thì đại diện cho trời và tổ tiên nhà họ Nông được xem như các vị thần Nông nghiệp: Nùng Trí Cao: Thần gia súc. Thần nước là 3 con rồng ở ngã 3 sông Gâm và sông Neo là vị thần đỡ đầu cho nhà chúa. Người dân coi chúa là đại diện cho trời đất, là mé khẩu (mẹ lúa), mé phủ (mẹ vải), Pó năm (bố nước), me mường (mẹ mường) người tượng trưng cho sự no ấm, hưng thịnh của toàn mường, vi phạm quyền lực của họ Nông là trái ý trời đất, vi phạm sự sinh tồn, phong đăng.. Những người chống với chúa đất được coi như chống đối thần linh: "Kẻ phản dân, phản Mường." Tự dặt mình ra ngoài cộng đồng, phải tội chết và nặng hơn nữa, tội ly khai khỏi cộng đồng. Hàng năm chúa đất đại diện cho toàn thể cộng đồng, chủ trì việc tế lễ trời đất, thần sông nước, thần địa phương, tổ tiên nhà chúa, để cầu mong cho bản Mường thịnh vượng, mùa màng tươi tốt, chúa dất còn cai quản cả các ma, thần (phi, Slấn) toàn lãnh thổ mình cai quản. Vậy nên chúa tự biến mình thành một vị nữa thần, nữa người có quyền bất khả xâm phạm (ma no) người dân phải thực hiện những kiên kỵ (tabua) khác thường khi tiếp xúc với chúa đất và dòng họ chúa. Vào thời kỳ trước cứ 3 năm một lần phải làm lễ hiến tế cho thần nước một trai tân cho thần. Mỗi gia đình thường có một bàn thờ tổ tiên để giữa nhà nơi trang trọng nhất, chỉ có người chủ nhân gia đình mới được làm chủ lễ, chỉ có con trai mới được dến gần, các nàng dâu khi về nhà chồng, có nơi phải biếu nhà chồng một bức trướng hay một rèm hoa treo trước bàn thờ để bày tôn kính ma tổ tiên nhà chồng. Nhìn chung các phong tục tập quán cũng như về tôn giáo của người Nùng đều có những nét tương đồng với người Kinh và người Tày. Văn học Có hai mảng chính đó là văn chương truyền miệng và văn học thành văn. Văn chương truyền miệng gồm có thành ngữ, tục ngữ, truyện cổ tích. Phuối pác, rọi (nói ví), câu đố và đồng dao, dân ca. Văn học thành văn gồm có: Lời ca nghi lễ, giao duyên, truyện thơ và thơ ca xã hội. Người Nùng cũng như Tày họ sử dụng thơ ca vào đời sống sinh hoạt rất phong phú. Ví dụ: Trong đám cưới, hay trong chuyện rượu (cỏ lẩu), trong cúng, tế lễ dao duyên. Chương IV. ĐỜI SỐNG VĂN HÓA VẬT CHẤT: 1. Nhà cửa: Người Nùng có hai loại nhà chính đó là nhà sàn và nhà đất ngoài ra còn có nhà sàn nữa đất nhưng không phổ biến. Nhà sàn: Là dạng truyền thống và phổ biến nhất của người Nùng ở Việt Nam. Có hai kiểu, nhà sàn hai mái và nhà sàn bốn mái (kết cấu phức tạp). Bộ sườn của nhà Nùng có nhiều kiểu kèo khác nhau: Có kiểu 4 hàng cột, 5 hàng cột, 7 hàng cột. Trong đó kiểu vì 7 hàng cột của người Nùng là kiểu vì hoàn thiện và mẫu mực, ở kiểu này thường thấy có một hoặc hai trụ ngắn hình 'quả bí' đứng trên xà ngang, có tác dụng như là chống kèo vậy. Nhìn chung sự khác biệt về chi tiết, bộ phận ở các kiểu kèo có thể là do tập quán giữa các vùng hoặc do nằm trong sự biến đổi phát triển chung của nguồn gốc nhà qua mỗi thời kỳ. Vì thế ở ngôi nhà giữa được nhiều đặc điểm cổ truyền hơn thì bao giờ số cột và kèo cũng giữ nguyên gốc của nó. Việc giảm bớt số cột ở trong hai vì kèo càng thấy rõ từng thời kỳ phát, biến đổi. Sau này với mục đích tạo không gian rộng rãi trong lòng nhà. Trước kia đồng bào sử dụng cả cột tròn và cả cột vuông, nhưng cột tròn phổ biến hơn. Theo quan niệm và kinh nghiệm việc ghép vuông, dặt ngoãm, nấc ở cột tròn đòi hỏi kỹ thuật cao hơn so với cột vuông. Việc dựng ngôi nhà sàn đòi hỏi không ít thòi gian và nhân công, riêng chuẩn bị vật liệu thường đã mất 3-5 năm hoặc hơn. Việc chuẩn bị này không thường xuyên mà vào thời kỳ nông nhàn, gỗ đem về thường được ngâm ao, ruộng đến khi làm mới được vớt lên. Chọn nền nhà và chọn hướng nhà là một việc rất quan trọng, nên cần phải xem xét thận trọng, vì theo quan niệm của đồng bào việc đó có ảnh hưởng đến công việc lầm ăn, sinh sống sau này cảu gia đình. Người Nùng thường mời thầy mo, và thầy địa lý để làm việc này. Dụng cụ làm nhà của người Nùng khá đầy đủ như: Cưa, đục, búa, dao, rìu.. quá trình dựng nhà ở người Nùng thường qua các bước: Lắp vì kèo, xả xà dọc, đặt hoành mái, đặt li tô, lợp mái, rải ván sàn, làm tường vách, làm bếp đến làm bàn thờ, quay buồng, làm cửa, làm sàn ngoài và cầu thang. Ngôi nhà sàn Nùng của ra vào có thể mở ở mặt trước, hoặc hai đầu rồi, của chính thường đặt cầu thang lên xuống, còn của phụ là nơi bếp hay ra sàn, nhiều nơi nhà sàn không có của sổ và mái hiên. Cầu thang lên xuống được làm bằng trụ gỗ, bằng đá, như ở người Nùng An Cao Bằng và bao giờ cũng là số bậc lẽ 3, 5, 7, 9.. vì họ quan niệm rằng bậc chẵn dành cho thế giới bên kia. Mỗi ngôi nhà ngoài sự giúp dỡ của họ hang thì cần phải có sự góp sức của các thợ chuyên nghiệp, những người này thường làm những công đoạn quan trọng nhất của ngôi nhà. Mỗi ngôi nhà thường ở được vài chục năm, thậm chí hàng trăm năm. Trong ngôi nhà Nùng có thể nói bàn thờ là nơi tập trung trang trí của gia đình và chiếm hầu như gần trọn 1 đến 2 gian. Nhà đất: Ngày càng xuất hiện nhiều ở người Nùng sinh sống đồng thời với rất nhiều thay đổi so với ngôi nhà cổ truyền nhỏ về quy mô, đơn giản và kết cấu bộ sườn. Nhưng nhìn chung kỹ thuật làm mái dựng vì kèo hầu hết là đuc mộng ngoãm, nối và tạo lỗ khi làm tường. Bộ sườn của nhữn ngôi nhà vách vắt đất, phên tre, nứa khác với những nhà xây gạch. Về mặt kỹ thuật hệ thống con xỏ được sử dụng nhiều trong những vì kèo, tương tụ như kết cấu nhà của đồng bào Việt (dao giao lưu hoặc do các thợ người Việt làm). Nhiều nơi ở Lạng Sơn, từng có nhà đất những người Nùng vẫn làm một ngôi nhà sàn nhỏ kế bên ngôi nhà chính, bàn thờ tổ tiên và nhà bếp vẫn được đạt ở ngôi nhà sàn phụ đó, điều này cho thấy yếu tố cổ truyền đã được bảo lưu gần như là nguyên vẹn ở ngôi nhà phụ. Thời gian gần đây vì có sự giao lưu giữa người Việt với người Nùng nên ngôi nhà của người Nùng dường như có sự lai căn về kết cấu với kiểu nhà của người Kinh 2. Trang phục. Trang phục Nùng khá phong phú và đa dạng, nhìn chung có tính thống nhất. Trong sự thống nhất đó tuy trang phục được phân biệt theo giới tính và theo độ tuổi, theo địa vị xã hội và theo nhóm địa phương. Nam giới ít đeo đồ trang sức, có một số người đeo vòng bạc. Y phuc nam giới thường ngắn và hẹp, chiếc áo 4 thân của nam giới Nùng Phàn Slinh cắt may hơi khít người và ngắn, ống tay áo hẹp. Áo dài 5 thân mà Nùng an vẫn đang còn dùng phổ biến là hơi hệp ngang và chỉ buông chấm hông, đỉnh tà áo dài cánh 4 thân và áo dài 5 thân của nam giới Nùng thường viền chỉ đỏ. Nam giới Nùng ở số nhóm như Nùng Dín, Nùng an thường đeo 'vì cùn' tấm đệm vai dung để lót vai trong khi mang vác, gánh nặng cho đỡ đau với đỡ hại quần áo. Tạp dề dùng đeo trước bụng để bảo vệ quần áo khỏi bẩn, được làm bằng một vuông vải hình chữ nhật, dài ngắn tùy ý theo kích thước, tầm vóc của mỗi người. Đầu trên có đính dây vải để buộc vào quanh bụng, đầu dưới dài đến ngang ống chân. Tục xăm mình, bịt răng vàng, bạc, đeo vòng kim loại ở nam giới Nùng khá phổ biến. Trang phục nữ giới cũng khá phong phú và đa dạng hơn, tuy cách tạo hình của trang phục nữ giới Tày, Nùng có nhiều điểm giống nhau nhưng màu sắc, kiểu cách hoa văn trang trí và kích thước khác nhau rất rõ. Màu sắc chủ đạo trong trang phục của phụ nữ Nùng đó là màu xanh, đen, xanh tím than, xanh phớt nâu, xanh phớt hồng. Về kỹ thuật tạo hình phụ nữ Nùng nói chung giống y phục của phụ nữ Tày, điểm khác nhau căn bản là ở chổ áo người Nùng cổ đứng, tà xẻ cao, thường rộng và ngắn. Áo dài của tất cả nhóm Nùng thường chỉ dài quá thắt lưng hoặc nhiều lắm là che kín mông, thân ống tay rộng, chiếc quần dài của phụ nữ Nùng cũng thuộc loại quần ta ống và cạp rộng. Duy chỉ có áo, váy của phụ nữ nùng Dín là khác với kiểu so với các nhóm Nùng khác nhau. Khăn đội đầu của phụ nữ Nùng gồm có khăn vấn, khăn vuông, khăn hoa trùm phía ngoài, khăn vấn rộng 20cm dài 80cm, ở đầu khăn có đính tua chỉ màu và các hạt bạc nhỏ. Phụ nữ Nùng Dín có khăn chíp được dùng khi tham dự các sinh hoạt văn hóa cộng đồng đó là loại khăn vấn bằng vải chàm, có kích thước 0, 2 x1m. Phụ nữ Nùng An đầu đội bằng chiếc khăn dệt hao khổ 25x25cm quanh mép khăn có thêu chỉ, khăn này được đội trên khăn vấn, mối giắt lồng dưới rất khéo. Phụ nữ Nùng Lòi vấn tóc đội khăn như phụ nữ Nùng Cháo và người Việt ở vùng đồng bằng. Phụ nữ các nhóm Nùng thường bịt răng ván và ưa thích dùng đồ trang sức bằng bạc như vòng cổ, vòng tay, vòng chân, khuyên tai, hoa tai, dây chuyền xà tích. Dùng nhiều trang sức hơn cả là ở người Nùng Dín và ngược lại phụ nữ Nùng An, Nùng Inh, Nùng Lòi sử dụng trang sức bằng bạc ít hơn. Trong các trang sức của họ có bộ trâm cài đầu khá độc đáo. Trâm làm bằng bạc, gồm 4 chiếc (3 chiếc bán nguyệt, 1 chiếc hình bướm). Phụ nữ các nhóm Nùng thắt dây lưng dệt bằng vải sợi bông hoặc tơ tằm dài khoảng 2m ở dây lưng cũng có những hoa văn trang trí khác nhau. Ngoài sự khác nhau về trang phục theo giới tính, thì người Nùng có sự phân biệt về tuổi tác. Quần áo trẻ em cũng được cắt may theo kiểu người lớn, nhưng ít hoa văn hơn. Mũ trẻ em hình bán cầu thường được khân chắp bằng các mảnh vải khác nhau về màu sắc, hình tam giác. Trang phục của người có tuổi thường đơn giản hơn, ít hoa văn hơn. Trong những ngày thường người Nùng thường không mang đủ trang phục trên người phụ nữ Nùng Dín khi đi làm chỉ mặc áo cánh, váy cũ, ít dùng thắt lưng. Với nam giới ít có sự khác biệt giữa quần áo mặc trong lao động, sinh hoạt hằng ngày với quần áo lễ hội. Theo phong tục trong những ngày lễ, tết, những ngày sinh hoạt cộng đồng người Nùng thường mặc quần áo mới nhất, đẹp nhất điều này biểu hiện nếp sống văn hóa của họ. Ở cư dân Nùng người chết được mặt những bộ đồ quần áo mới và liệm vào quan tài trong một tấm vải trắng. Con trai con gái người quá cố mặt tang phục màu trăng nhưng đẻ mặt chỉ lộ ra ngoài, điều đó thể hiện tình cảm của người còn sống dành cho người đã chết. Trước năm 1945 xã hội người Nùng có sự phân chia giai cấp trong xã hội có hai thành phần cơ bản đó là: Giai cấp thống trị (quý tộc) và giai cấp bị trị (nhân dân lao động). Tầng lớp thống trị có đời sống khá, thường may mặc đồv theo kiểu người Kinh. Tầng lớp trung gian là một số những người hoạt động tôn giáo như thầy Mo, Tào, Pụt, khi hành lễ có thêm áo và mũ cứng, mũ này có trang trí đặc biệt. Điều đó thể hiện đặc trưng văn hóa tộc người với mối quan hệ văn hóa của người Nùng được thể hiện qua trang phục. Tính thống nhất theo tộc người của trang phục Nùng được thể hiện ở sự giống nhau cơ bản trong tất cả các nhóm địa phương. 3. Ăn uống: Cơm gạo tẻ là thành phần chủ yếu trong những bữa ăn thường nhật của người Nùng, lúa nếp không được cấy nhiều và chỉ được dùng vào trong những dịp lễ tết. Lương thực phụ hàng đầu đó là ngô, sau đến sắn, khoai dùng để ăn độn với cơm hoặc ăn vào bữa phụ. Người Nùng có hai bữa ăn chính đó là lúc trưa (11 giờ), và tối (lúc 18 giờ). Ngoài ra còn có 2-3 bữa phụ tùy theo điều kiện của mỗi nhà. Thực phẩm chủ yếu cho bữa ăn hàng ngày có rau, măng, đậu, còn cá, thịt, trứng, cua, ốc.. tỉ lệ rất thấp và không thường xuyên. Thức uống ở cư dân Nùng đến nay đã hạn chế dùng đến nước lã, nước đun sôi để nguội hay nước trà lá được sử dụng phổ biến. Rượu có hai loại 'lẩu slieu' (rượu cất) và rượu ủ 'lẩu van' rượu nếp. Rượu để càng lâu ngày, càng được nâng cao chất lượng. Rượu được dùng trong cúng, tế, lễ hội và dùng một ít trong bữa ăn. Nhìn chung cơ cấu bũa ăn của người Nùng không quá cầu kỳ, mang tính văn hóa cao, tùy theo điều kiện mỗi gia đình mà cơ cấu bữa ăn khác. V. TỔ CHỨC GIA ĐÌNH VÀ XÃ HỘI. 1. Các hình thức và mối quan hệ trong gia đình: Đồng bào Nùng thường gọi gia đình là "Tu rườn", đã từ lâu gia đình phụ quyền là loại hình gia đình chủ yếu ở các vùng đồng bào Nùng. Phổ biến nhất vẫn là gia đình hai thế hệ đó là bố mẹ và con cái chua có gia đình. Cũng có những gia đình có cả em trai chưa vợ, em gái chưa chồng, hoạc anh em họ hàng. Đáng chú ý là trong các gia đình còn có con gái đã lấy chồng nhưng sau khi cưới vẫn ở lại sống chung với bố mẹ đẻ cho tới khi sắp sinh con đầu lòng mới về nhà chồng. Thời gian các cô gái ở lại nhà bố mẹ đẻ có thể kéo dài tới hàng chục năm nếu cô chậm sinh nở. Ở các nhóm Nùng Giang, Nùng Pẻng, Nùng An, Nùng Cháo, tùy mức độ khác nhau vẫn duy trì hình thái gia đình lớn, tuy rằng quy mô và thành phần của nó so với gia đình lớn trước kia đã bị thu hẹp hơn nhiều. Hiện nay phổ biến là gia đình gồm 2, 3 anh em dã có vợ, có con nhưng vẫn sống chung với bố mẹ, tiến gành sản xuất, ăn, chi tiêu chung. Tuy nhiên hình thức này chỉ duy trì khi cha mẹ còn sống, còn khi bố mẹ qua đời các cặp vợ chồng tách ra ở riêng. Trước và sau Cách mạng tháng 8.1945 ở nhiều người Nùng đã từng tồn tại những gia đình lớn, thành viên của gia đình có thể lên đến hàng chục người, họ cùng chung sống với nhau, kể cả chi tiêu, làm ăn chung. Kiểu gia đình này người Nùng Lòi gọi là "Rườn lài pỏ mẻ lục lùa pú dả" (nhà có nhiều bố mẹ, con cháu, ông bà). Thường con cái tách ra ở riêng khi cưới vợ cho con trai út. Con trai thứ sẽ lần lượt tách ra ở riêng, con cả cùng với vợ con ở với bố mẹ. Tuy ra ở riêng nhưng các anh em vẫn ở gần nhau dể quan tâm giúp đỡ nhau về mọi mặt trong sinh hoạt đời sống. Người cha hoặc con trai trưởng có quyền bao quát chung, còn quyền hành thực sự thuộc về chủ gia đình nhỏ. Tỉ lệ nhân khẩu trên dưới 10 người chiếm tỷ lệ cao trong gia đình của người Nùng Phàn Slinh (Lạng Sơn), Nùng An (Cao Bằng). Mỗi tiểu gia đình là một đơn vị kinh tế độc lập, có tài sản riêng, uy tín của chủ rườn tùy thuộc vào cách ứng xử của ông ta vói mọi người trong gia đình và xã hội. Trong tổ chức sản xuất cũng như trong sinh hoạt hằng ngày gia đình tuân thủ theo phân công lao động theo giới. Đàn ông làm những công việc nặng nhọc, đàn bà làm những công việc nhẹ nhàng hơn. Tuy nhiên phụ nữ Nùng có thể làm tốt những công việc nặng nhọc mà không kém gì so vói nam giới, họ có thể đi cày, tham gia vào viêc làm nương, phát rẫy. Đặc biệt phụ nữ Nùng An còn nổi tiếng với nghề rèn, đan lát giỏi. Việc chăn gia súc, cắt cỏ thường dành cho phụ nữ và trẻ em. Trong gia đình Nùng tính chất gia trưởng phụ quyền rất cao, phản ánh rõ nét trong đời sống hàng ngày trên mọi lĩnh vực, điều này không chỉ biểu hiện qua vai trò người bố, chồng, cha là người quyết định mà còn biểu hiện rõ rệt trong việc phân chia tài sản, chỉ có con trai, mới được quyền thừa kế. Việc phân chia tài sản được tiến hành khi bố mẹ về già hay đã qua đời hoặc khi một trong những người con trai cùng vợ con tách ra ở riêng. Con trai trưởng được nhận phần nhiều hơn và ở chung với bố mẹm, có trách nhiệm chăm sóc phụng dưỡng bố mẹ. Khi bố mẹ đã khuất bóng thì lo tang ma, cúng giỗ. Tuy nhiên ở người Nùng Dín Hoàng Sa Phì (Hà Giang) thì tài sản của bố mệ để lại cho người con trai út, người con trai út là người lập gia đình sau cùng, ở chung và phụng dưỡng bố mẹ. Trường hợp gia đình không có con trai thì khi bố mẹ mất tài sản được phân lại cho chàng rễ, con rẽ phải đổi họ và có trách nhiệm thờ cúng ông bà, cha mẹ khuất bóng. Người phụ nữ trong gia đình ở địa vị thấp hơn nam giới, trong gia đình người phụ nữ phải tuân thủ những quy tắc chặc chẽ như: Không được đi ngang qua phía trước bàn thờ trong nhà, không ngồi vào chổ tiếp khách của nam giới ở gian ngoài, không ngồi cùng chiếu với bố, anh chồng, không được đến chổ ngủ dành riêng cho bố, chú, bác chồng. Bố chồng và con dâu thường không ăn cơm cùng mâm, không đi cùng đường, không làm một chổ trên một ruộng, rẫy. Thường bố, anh chồng khôngbao giờ vào buồng con dâu, không trực tiếp đưa đồ cho con dâu mà phải để chổ nào áy rồi con đâu tự lấy. Ngay cả khi con dâu ở cử, người trong nhà đi vắng bố chồng cũng không trực tiếp đưa cơm hay bất cứ vật gì cho con dâu. Thậm chí cháu khóc ông cũng không được vào phòng bế cháu ra mà phai nhờ người khác bế cháu ra hộ. Quan hệ con rễ và mẹ vợ cũng diễn ra tương tự như vậy. Mọi sinh hoạt của phụ nữ chỉ ở trong phạm vi phần trong của nhà, con gái hay con dâu chỉ tiếp khách nữ ở trong buồn bếp. Mọi hoạt động đi lại của con gái phải hết sức thận trọng, khi ngồi phụ nữ không được quay lưng vào bàn thờ tổ tiên. Khi mời khách uống nước, họ phỉa cúi khom người xuống, mời xong, lùi lại một bước rồi quay đi. Theo quan niệm của người Nùng họ nội lúc nào cũng quý hơn họ ngoại. 2. Hôn nhân trong xã hội Nùng Người Nùng có quy định rất chặt chẽ trong hôn nhân gia đình, cấm lấy người trong dòng tộc với nhau, trừ những người họ xa khác chi. Tuy nhiên những trường hợp họ xa lấy nhau cũng rất hiếm. Tiêu chuẩn người chồng trong xã hội Nùng xưa cũng như nay là khỏe mạnh, cần cù, cày bừa thành thạo, săn bắn giỏi. Trai Nùng thích tìm vợ là những người "Nả hang khàng suổi phịn siêng" (con gái mặt vuông chữ điền trông như tiên) và không thích kết hôn với những cô "kiêu sải bố thưng tum, mì cua tẻ sè lùm sèo móp" (gót chân không chạm đất khổ suốt đời). Nhiều nơi đồng bào thường dánh giá những đức tínhcuar người dâu tương lai qua cách làm ăn của người mẹ: "Chiếu khẩu lệ chiếu phàng, Chiếu nàng lẽ chiếu mẻ." (Muốn biết được lúa, nhìn vào gốc rạ, Muốn biết nàng dâu nhìn vào người mẹ). Trong tình yêu nam, nữ Nùng được chủ động ở mức độ nhất định, được thổ lộ tình cảm với người mình yêu vào dịp hội hè hàng năm như hôi "hồng tông" (xuống đồng). Các buổi chợ phiên, những ngày cưới của bạn bè, vào các buổi lao động chung của làng.. Họ biểu lộ tình cảm bằng những bài hát đối đáp Sli, lượn, những bài cò lẫu: "Phong slư." Người Nùng Phàn Slinh đôi trai gái đã có tình ý với nhau họ trao đổi quà tặng cho nhau, con gái tặng con trai cái "con lót" (giỏ đựng chỉ), cái "cưn nả" (khăn đội đầu nam giới) và nhận lại của bạn trai cái "an sả" : "Phooc phum." (cái lược). Trước kia mặc dù nam nữ thanh niên Nùng được tự do tìm hiểu, thổ lộ tình cảm nhưng hôn nhân do cha sắp đặt vẫn là hình thức hôn nhân chủ đạo. Hiện tượng ngoại tình, hoang thai cũng hiếm có, theo luật tộc Nùng nếu người vợ ngoại tình sẽ bị đuổi ra khỏi nhà chồng và phải bồi thường tài sản cho nhà chồng. Nếu người chồng ngoại tình sẽ phải nộp phạt một con trâu đẻ bồi thường danh dự cho nhà gái. Ỏ người Nùng An sau khi vợ cả tổ chức cưới vợ lẽ cho chồng thì bà ta sẽ làm một ngôi nhà khác hoặc ngăn nhà ra ở riêng cùng với con cái của mình. Theo luật tục của người Nùng Din ở Bắc Giang và Hoàng Su Phì- hà Giang nếu vợ chết, chồng có thể lấy em gái vợ. Em trai chết anh trai có thể lấy em dâu "Phú lùng âu mẻ nả". Song hiện nay những hiện tượng như thế rất hiếm. Trong hôn nhân người Nùng cũng như người Tày có tập tục ở rể (ở rể tạm và ở rễ suốt đời). Trong đám cưới phí tốn cho hôn lễ do nhà trai lo liệu. Người Nùng Din ở rẽ được giảm 1/3 số lễ vật trong hôn lễ. Sau lễ 3 ngày người mẹ chồng đoàn nàng dâu về giúp việc nhà. Khi người vợ ra về thì người chồng cũng theo về bên nhà vợ, chàng rể thường ở nhà vợ cho đến khi em trai của vợ trưởng thành sống tự lập, lúc đó bố mẹ vợ sẽ chia một ít tài sản cho đôi vợ chồng này ra ở riêng. Tuy cùng địa bàn cư trú và cùng sinh hoạt với người Tày nhưng giũa hai tộc ngươig này ít khi kết hôn với nhau, đa phần người Nùng thích kết hôn với người Nùng mà thôi. 3. Nghi lễ cưới: Trong lễ dạm của người Nùng Dín (Hà Giang) nhà trai tìm một bà mối đứng tuổi trong bản (là người ăn nói hoạt bát, hiểu biết, vui vẻ, trung thực) đến nhà gái thăm hỏi, tìm hiểu mọi mặt về gia thế, đặc biệt về cô gái, giới thiệu với nhà gái về chàng trai và gia đình anh ta. Nếu nhà gái có thiện cảm sẽ cho biết ngày sinh tháng đẻ của con gái mình. Trong khi đó ở người Nùng An (Cao Bằng) bà mối "Me slo" thường là bà cô họ, thay mặt nhà trai mang theo 20 lá trầu, 1 cây vỏ, 1kg đường đến nhà chạm ngõ. Lễ vật được trưng trong một cái "chỏng vả" (giỏ con bằng tre) do chính tay chàng trai đan, đây cũng là hình thức để bày tỏ cho gia đình, nhất là cô gái biết được sự khéo léo của chàng trai. Người Nùng An chỉ tiến hành lễ chạm vào những ngày chẵn của âm lịc và kiên vào những ngày có chuyện không hay xảy ra trong bản. Người mối đi một mình, khi đến thường được nhà gái tiếp đón vui vẻ và làm cơm tiếp đãi. Nếu nhà gái ưng thuận lễ vật sẽ được mẹ cô gái đặt lên bàn thờ tổ tiên, hai đến ba ngày sau người mối quay lại nhà cô gái xin lá số "au nỉnh" của cô gái. Trường hợp khước từ nhà gái trả lại mâm lễ vật. Người Nùng lòi thường nhờ chú, bác người có gia đình đầy đủ, đông con sang đặt vấn đề với nhà gái, đôi khi phải đi 3-4 lần mới nhận được lá số "ạu nỉnh" của cô gái sau đó họ nhờ thầy mo xem tuổi hợp hay không? Nếu hợp tuổi thì hai bên bàn bạc rồi tiến hành đến hôn lễ. Trong trường hợp không hợp tuổi thì nhà trai trả lại lá "ạu nỉnh" và một ít tiền hoặc một số lễ vật cho nhà gái tiền gọi là "Xèn quá hồng" để bồi thường danh dự cho nhà gái. Theo quan niệm của người Nùng Phàn Slinh Cao Lộc, Lam Sơn trên đường đi gặp rắn là tốt, gặp người đang cắt tóc, phụ nữ đang gội đầu, hay nghe tu hú kêu là không tốt, nên phải quay về đi lần khác. Trong trường hợp hai bên gia đình đồng ý cho con đi đến hôn nhân thì sau một thời gian nhất định, nhà trai tiến hành lễ ăn hỏi. Ở người Nùng Lòi gọi là "háp mỉnh hom", còn với người Nùng Phàn Slinh thì gọi là "tét xèn" (đặt tiền) hay "đắt cáy" (lễ gà), người Nùng An có lễ "pay cá cay" nhà gái. Trong lễ này nhà gái mời họ hàng thân thích đến dự để bàn bạc và thống nhất với đại diện nhà trai về đồ sính lễ, tiền cưới mà nhà trai phải nộp cho nhà gái, tùy theo từng phong tục của mõi vùng khác nhau mà lễ vật có thể khác nhau nhưng nhất thiết là phải có gà. Người Nùng Lòi nhờ ông mối "pỏ mòi" cùng anh em trong dòng họ mang lễ vật sang nhà gái để làm lễ "háp mỉnh hom" thường đến vào buổi tối, lễ vật có 100 bánh dầy, một đôi gà thiến, 1kg thịt lợn, 1l rượu, nhà gái nhận đưa lên bàn thờ. Sau khi làm lễ xong nhà gái biếu lại nhà trai 10 cái bành dầy, du nữa con gà và sau đó chính thức là thông gia. Người Nùng An đến ngày lễ "Pây cá cay" ông mối "Lão Slo" cùng một em bé khoảng 12-13 tuổi, mang lễ vật gồm 1 đôi gà thiến, 6kg thịt lợn, hai chai rượu, 10 ống gạo nếp sang nhà gái. Một số họ hàng nhà gái ra đón lễ, nhà gái dùng các lễ vật đó để cúng tổ tiên, ông cậu "tả Slung" chủ trì buổi lễ sau đó tiến hành các nghi lễ tiếp theo. Người Nùng quan niệm rằng nếu hôm cưới mà sáng sớm có mưa phùn, buổi chiều hửng nắng thì sau này đôi trai gái đó sẽ làm ăn thuận buồm xuôi gió. Nếu vào ngày dó có sấm sét, thì việc làm ăn ắt khó khăn, những điều rủi ro có thể xảy ra. Trên đường rước dâu hai đám cưới gặp nhau thì 2 cô dâu dừng lại mời trầu hoặc trao khăn đội đầu cho nhau. Dẫn đầu đoàn cưới người Nùng Lòi là ông mối "Pở Mòi" sau đó đến rễ, phù rễ, một cô đón, sau đến 2 thanh niên khiên lợn quay, đến một em trai gánh xôi, một em gái gánh 8 con gà thiến, 1 con gà luộc, 1 dải lụa hồng, 1 mảnh vải (tùm khó) để trả công ơn mang nặng đẻ đau cho mẹ cô dâu. Từ trong nhà đi ra không một ai trong đoàn dẫm chân lên bậc cửa chính. Thành phần rước dâu của người Nùng Lòi có ông mối, chàng rễ, phà rễ, hai thiếu nữ và một bé gái 12-13 tuổi, lễ vật gồm xôi, đôi gà thiến, hai cây nến và tờ giấy ghi lộc mệnh của cô dâu được đính trên mảnh vải đen đem đến bàn thờ. Còn với người Nùng Dín gồm có bà mối, đến chú bác chàng rễ, đén chàng rễ mang lễ vật đi dến nhà gái.. 4. Tục lệ sinh đẻ Người Nùng quan niệm gia đình hạnh phúc là gia đình có đông con. Trước kia cũng như hiện nay, kén chọn vợ cho con trai, bậc cha mẹ thường tìm hiểu rất kỹ về lai lịch cha mẹ đẻ, nhất là bà mẹ cô dâu. Xem người mẹ đẻ có tốt không và nuôi con có tốt không. Những người phụ nữ không chồng, con bị xã hội coi thường. Người phụ nữ mang thai không nên làm việc nặng, đối với người Nùng An, Lòi, Cháo khuyên phụ nữ mang thai nhiều điều kiêng kỵ như: Không bước qua dây buộc nghựa, trâu bò vì quan niệm rằng sau này đứa bé sẽ bị trang hoa cổ hoạc sẽ luôn há mồm. Không ăn ốc vì trẻv sinh ra bị dớt dãi, không ăn cơm cháy sợ dính ruột, không đánh rắn sợ lưỡi đứ trẻ luôn thè ra. Người chồng tuân thủ một số kiêng kỵ nhất định như: Không chọc tiếc lợn, cắt tiết gà, vịt, không đi viếng đám ma, không được khiêng quan tài, không làm bụt, ông mối trong đám cưới.. Đôi vợ chồng không được làm nhà mới, không trang trí mua sắm đồ dùng mới, không di chuyển sắp xếp lại đồ đạt trong nhà. Mong con đầu lòng là con trai để giữ ống hương. Nơi đẻ của người sản phụ là căn buồng của chính mình. Cách đẻ mỗi nơi mỗi khác: Đẻ ngồi hoặc nằm. Người Nùng An ngồi trên một cái ghế thấp, hai tay bám vào cột nhà, tự đỡ lấy. Khi đứa trẻ ra đời người mẹ dùng dao cắt rốn cho con, người ta giữ rất cẩn thận cái cuốn rốn vì cho rằng bà mụ bảo vệ linh hồn đứa trẻ đang ngụ ở đó. Sau khi sinh sản phụ được chăm sóc rất chu đáo, sản phụ thường ăn cơm nếp, thịt gà mái tơ, gà trống chưa thiến, chân giò ướp rượu, nghệ.. để có nhiều sữa cho em bú, tuyệt đối không ăn cổ, cánh, lòng, và doc sống lưng các con vật nói trên, rau xanh chỉ ăn rau ngót, xu hào, khoai tây. Người ta khuyên không nên ăn cá đứa con sẽ bị mụn nhọt, sài lở, trong khoảng thời gian đó phụ nữ kiêng tám rữa, kiên đến nơi linh thiêng, nơi thờ cúng. Theo người Nùng Lòi sản phụ muốn ra ngoài phải buộc một sợi thắt lưng để phòng ngừa ma "sam sat" nhập vào người mẹ và con. Đứa bé ra đời trước nhà người ở cử gia đình thường treo một cành lá xanh hoặc cắm ở cầu thang một lông gà là con trai, hai lông gà là con gái để báo người lạ biết không vào nhà trong thời gian 3 ngày đầu. Đối vói người Nùng An sanh con trai thì buộc cành lá bưởi vào thanh củi đã cháy giở cắm vào chân cầu thang, nếu là sanh con gái thì treo trước nhà cành lá bưởi buộc mảnh giẻ. Người Nùng Slin thì cắm cành lá bên trái nếu là sanh con gái, bên phải là sanh con trai. Sau khi sanh được ba ngày ggia đình mời thầy cúng tới làm lễ "Slam hắt" : "Slam nâu." (ba sáng) "Kin năm khinh" (uống nước gừng) nhằm xua đuổi tà, cầu may sức khỏe. Ở người Nùng Inh (Chi Lăng, Lạng Sơn) bàn thờ mụ đặt bên cạnh bàn thờ tổ tiên, nhưng thấp hơn. Bàn thờ mụ của bé trai khác so với bé gái, trong nhà lúc nào người con gái út, trai út lập gia đình thì bàn thờ mụ mới bỏ đi. Hôm làm lễ lập bàn thờ mụ người mẹ bế con ra khỏi buồng để báo cáo tổ tiên cũng như để giới thiệu hai bên gia đình nội ngoại, khi đứa trẻ đầy tháng, và đủ 12tháng tuổi người ta làm lễ ăn mừng. 5. Nghi lễ đám tang: Bên cạnh thế giới của người còn sống thì thế giới của người chết đó là quan niệm từng ngự trị hàng ngàn đời nay trong tâm thức cư dân Nùng. Vì thế họ tin rằng những người chết đã sang thế giới bên kia và cũng có mọi nhu cầu sinh hoạt như người còn sống, nên trước khi cử hành chôn cất ở người nùng nghi lễ diễn ra rất phức tạp. Bất cứ gia đình nào có người mất việc đầu tiên con cháu trong nhà phải đun một nồi nước lá bưởi hoặc lá cây thanh tú để tám cho người đã mất, với ý nghĩa tẩy uế, làm cho linh hồn người chết được thơm tho mát mẻ, sau đó mang người chết đặt ngay gian giữa nhà. Theo tục ở người Nùng Lòi nếu bố mẹ chết, mỗi người con mang một mảnh vải trắng dài 1m đắp lên theo thứ tự con trai trưởng đắp trước sau đó đến con trai thứ, đến con gái, con nuôi (nếu có). Làm như thế để thể hiện sự đền ơn, đáp nghĩa người nuôi nấng mình. Người Nùng ở Hà Bắc liệm người chết bằng cách dùng vải mộc tự tay dệt quấn quanh thi hài, nam quấn 7 vòng, nữ cuốn 9 vòng, mỗi vòng đều có thắt nút. Ở người Nùng Cháo con trưởng lấy kéo cắt một hai nhúm tóc của người chết rồi gói lại treo ở ngoài hiên nha gần chổ của người đó. Sau đó thầy Tào làm lễ nhập quan, người Nùng Lòi gọi là ' xảo nả', người Nùng An gọi đó là 'boong may'. Thầy Tào dùng 'pháp thuật' thu hồn người chết vào áo quan. Người Nùng Lòi làm lễ này khá cầu kỳ, thầy Tảo bê một chậu nước lá bưởi đưa ra ngoài sàn, và cầu khấn, xong thầy quay vào nhà tay cầm một chiếc liềm, một mảnh giấy có ghi chữ Nho buộc ở đầu một cái que rồi bấm giờ để đưa thi hài vào quan tài. Trong khi chờ đợi giờ tốt, thầy lẩm bẩm khấn và lần lượt gọi từng con cháu cầm lá bưởi nhúng vào chậu nước đến chổ người chết đưa lá bưởi từ đầu xuống cằm 3 lần. Ở người Nùng An (Cao Bằng) 'boong may'được tiến hành càng sớm càng tốt vì con cháu, họ hàng của người quá cố chỉ đuuọc ăn cơm và khóc sau lúc làm xong lễ này. Kể từ sau lễ nhập quan mọi sinh hoạt trong gia đình có sự thay đổi, con cháu trong nhà phải ăn chay, ăn kiêng thịt mỡ, các chân giường đều tháo khỏi mộng, vợ chồng phải cách ly, con trai không được cắt tóc và trước mỗi bữa cơm gia đình mang cơm đặt ở cuối quan tài và thắp hương mời linh hồn người quá cố về ăn. Bữa cơm cúng đầu tiên gia đình phải mời thầy Tảo đảm nhiệm khấn gọi hồn, còn những lần sau thì con trai trưởng tự khấn mời. Ở người Nùng Lòi trước lúc đưa ma, nếu chồng chết người vợ còn sống thì phải làm lễ 'Pijăc căn' biệt ly. Người vợ và các con cháu phải cầm chén rượi đưa ra sau lưng và quỳ phía dưới quan tài mặt ngoảnh ra ngoài mang ý nghĩa dân rượi biệt ly. Còn người Nùng Phàn Slinh trước khi đưa ma cả gia đình ăn cháo, lúc đó con rễ và con thứ khiêng cái mẹt trong đó đựng vuông vải trắng, 1 bát gạo, 1 hình nhân bằng giấy, đi vòng quanh quan tà, đèn trong nhà vụt tắt, các cô con gái nhanh chóng xếp tiền giấy vàng mã, con gà, quả trứng, bát cơm nếp đẻ ở đầu quan tài, gánh ra nghĩa địa. Các con trai ở lại đêt thầy Tào làm lễ 'xuất muồng' (tiễn linh hồn người chết). Người Nùng An và Nùng Cháo làm lễ xuất phi sau khi thầy Tào đọc bài khấn tiễn đư linh hồn người chết về với tổ tiên, người ta cho chân quan tài ra trước với quan niệm làm như vậy để người chết đi thẳng một mạch không còn quay trở về nhà được nữa. Người Nùng An vào lúc đó các con trai và con rễ nằm sáp ổ cầu thang, hướng lên nhà để cho quan tài khiêng qua. Khi quan tài đua xuống tới đất họ đứng dậy, tay cầm dao nhọn đi trước quan tài với dụng ý là xua đuổi các loại ma dữ ra chắn đường không cho người chết đi, đồng thời thay phiên kham dưới quan tài tượng trưng cho con cháu thay phiên nhau cõng cha, mẹ, ông bà về nơi an nghĩ cuối cùng. Nghi lễ cuối cùng của đám tang là chôn cất, sau 3 ngày có lễ 'khay tú mí' (mở cửa mồ). Đúng 3 năm sau người Nùng làm lễ mãn tang, đây là nghi lễ cuối cùng đối với người đã chết, điều này có hai ý nghĩa trước hết là con trai từ nay hết thời kỳ chịu tang, và phần hồn của người quá cố được nhập vào bàn thờ tổ tiên. Ở người Nùng Dín (Hà Giang) lễ tang lại không theo thể thức như trên. Trong nhà có người chết họ làm lễ chôn cất ngay, khi nào có điều kiện mới tiến hành các nghi lễ của đám tang, còn gọi là ma khô. Họ tổ chức rất linh đình làm lễ ma khô, họ mổ rát nhiều lợn, gà, dê, vịt.. Đối với người chết bất đắc kỳ tử, trước kia đồng bào Nùng thường làm một cái lán để quàn quan tài và làm ma ở ngoài nhà. Trường hợp muốn làm ma trong nhà phải dỡ ván sàn để đưa thi hài từ dưới gầm sàn lên. Sau khi đun nước tắm rửa, mặc đồ cho người chết, người ta mới phát tang và con cháu mới được khóc. Người đang có thai hoặc sinh nở mà chết thì thường được an táng riêng một nơi, cạnh mộ trồng cây chuối và rào xung quanh mộ thật đẹp, với ngụ ý để cho linh hồn người đã khuất được thanh thản. Vợ chồng lấy nhau, chưa có con mà chết thì thi hài quàn tại nhà một ngày, chôn ở khu nghĩa địa tổ tiên nhưng ở vị trí thấp hơn. Những người chết ở lứa tuổi 15-18 mà chưa có gia đình thì thi hài chỉ quàn tại nhà một ngày đêm, rồi mang chôn ở nghĩa địa thanh niên. Những đứa trẻ chưa đầy tháng tuổi chết thì gói chiếu mang chôn ở một nơi kín đáo cách xa nhà (nghĩa địa trẻ em). Cũng có khi người ta gói đứa trẻ cho vào giỏ mang treo lên cây hoặc thả xuống vực. Nhìn chung hiện nay nghi lễ đám tang của dan tộc Nùng vẫn theo lối cũ, với những nghi thức phức tạp, chứa đựng một số yếu tố mê tín, cùng những chi phí tốn kém. Chương VI. CÁC NGHÀNH KINH TẾ Các nhóm người Nùng đều là cư dân trồng trọt, nguồn sống chủ yếu dựa vào kết quả của mùa màng, cùng với nông nghiệp ruộng nước, nương rẫy ở nhiều vùng vẫn chiếm vị trí đáng kể. Đồng thời việc làm vườn trồng cây đặc sản, chăn nuôi tiểu thủ công nghiệp, hái lượm, săn bắt đánh cá.. đều là những nghành kinh tế phụ trợ cho kinh tế ruộng nước. Đó là đặc điểm chung nhất trong sản xuất của người Nùng, và những cư dân trồng trọt lâu đời người Nùng đã khai thác các thunmg lũng và đồi núi vùng cư trú của mình thành những cánh đồng, những triền ruộng bậc thang màu mỡ, những vườn rừng với cọ, cây ăn quả.. 1. Trồng trọt: Người Nùng gọi ruộng là Nà, họ làm ruộng trên mảnh đất bằng phẳng, có bờ giữ nước, giữ ẩm, có thể cấy lúa. Có nhiều loại như Na dặm (ruộng có nước) có thể làm hai vụ lúa hoặc một vụ lúa một vụ màu. Nà lọng (ruộng cạn chờ mưa) thường là ruộng bậc thang cao, khó nước một năm cấy được một vụ. Nà pòng (ruộng lầy lội) ở thung khe hoặc ở cuối cánh đồng, cũng chỉ được một mùa vụ. Kỹ thuật khai phá của người Nùng theo trình tự các khâu như làm đất, làm mạ, chăm bón và thủy lợi, thu hoạch. Bên cạnh làm ruộng người Nùng còn làm rẫy, nhìn chung các dân tộc Nùng là cư dân lúa nước nhưng tùy điều kiện ở mỗi vùng mà nông nghiệp có những vai trò khác đối với cuộc sống của họ, hầu hết nương rẫy vùng Nùng thuộc hai loại: Nương bằng và nương dốc, nương bằng dùng để canh tác lâu dài. Canh tác mọi loại nương đều phải tuân theo một quy trình nghiêm ngặt: Phát, đốt, làm đất, trồng tỉa, làm cỏ chăm bón và thu hoạch. Người Nùng có nhiều kinh nghiệm chọn đất làm nương ở những nơi có thảm thực vật tươi tốt đẻ khi phát đốt được nhiều tàn tro làm phân bón. Họ cũng giỏi nhìn màu đất, xem địa thế và độ ẩm để trồng những loại lúa thích hợp. Nương lúa dường như không bón phân vì đất tốt, khâu làm cỏ được tiến hành 2-3 lần. Việc xen canh, gối vụ chủ yếu ở nương ngô. Vì sống ở vùng cao và nguồn sống dựa hẳn vào nông nghiệp nương rẫy là chính nên kỹ thuật trồng ngô ở họ đã phát triển đến trình độ cao. Phần lớn người Nùng đều có vườn ở gần nhà hoặc ven đường, ven sông, suối gần bản. Vườn trồng các loại rau, cây gia vị, gừng tỏi, tiêu. Cây ăn quả như: Chuối, đu dủ, chanh, cam. Các cây công nghiệp cũng được trồng phổ biến như: Hồi, thuốc lá, các loại cây lấy gỗ.. 2. Chăn nuôi: Là cư dân nông nghiệp từ xa xưa nên việc nuôi trâu, bò, nghựa để lấy sức kéo đã được đồng bào Nùng chú ý. Người Nùng Dín ở Hà Giang, Nùng giang ở Cao Bằng con nghựa được coi là đầu cơ nghiệp, nghựa được chăn nuôi rất công phu. Lợn và gà, vịt được nuôi rất nhiều và khá phổ biến ở dân tộc Nùng. Vì hầu hết các nghi lễ trong đời sống hằng ngày của người Nùng đều dùng đến lợn, gà, vịt. Ngoài ra đồng bào Nùng còn nuôi cá và nuôi ong lấy mật.. Ngoài ngành kinh tế truyền thống ra thì người Nùng còn duy tri kiểu kinh tế tự nhiên đó là săn bắn, hái lượm và đánh cá, tuy nhiên mức độ không đáng kể và tùy thuộc vào điều kiện từng vùng khác nhau. 3. Tiểu thủ công nghiệp. Xã hội Nùng đã xuất hiện nhiều nghề thủ công như: Đan, dệt, rèn- đúc, đục đá, ngói gạch, làm bàn ghế trúc, chưng cất dầu hồi.. Hầu hết các gia đình Nùng đều tự túc được các đồ đan thông thường như giần sàng, tấm phên, rổ.. và không ít gia đình đã đan được mọi thứ thường dùng hàng ngày. Công việc đan lát được tiến hành quanh năm, nhưng thường tập trung vào những ngày tháng nông nhàn. Dệt là một trong những nghề phụ của người Nùng, phát triển song song với nghề đan lát. Tuy nhiên do điều kiện sống cũng như do truyền thống văn hóa tộc người mà nghề dệt của đồng bào Nùng có những nét riêng, độc đáo. Nghề trồng bông, để dệt và nhuộm vải ở người Nùng duy trì rất lâu bền, còn trồng dâu nuôi tằm ít phát triển hơn. Nghề dệt thổ cẩm ở người Nùng cũng là nghề truyền thống lâu đời, đồng bào Nùng dệt thổ cẩm rất công phu, mỗi ngày chỉ dệt được một vài miếng nhỏ, thời gian dệt thổ cẩm chủ yếu vào lúc nông nhàn. Thổ cẩm Nùng không chỉ đẹp và nổi tiếng mà còn rất bền và mang đậm bản sắc văn hóa. Nghề rèn, đúc cũng phát triển rất mạnh ở người Nùng An, Nùng Giang, Nùng Dín.. Họ rèn đúc các loại dụng cụ sinh hoạt hằng ngày như cày, cuốc, xẻng, dao, rựa.. Ngoài ra đồng bào Nùng còn có nghề làm ngói máng, nghề mộc, nghề chế biến lâm sản.. 4. Chợ phiên và trao đổi. Sự phồn vinh về kinh tế nông nghiệp, sự phát triển về các nghề phụ trong gia đình, và sự phong phú và đa dạng của làm thổ sản do thiên nhiên ưu đãi, cùng với vị trí địa lý đặc thù riêng của vùng nên từ xa xưa việc trao đổi, và buôn bán cũng trở nên sầm uất với các luồng lâm sản và đặc sản. Mỗi huyện trong vùng đều có chợ huyện là lớn nhất, trao đổi mọi thứ sản vật hàng hóa trong một huyện, vùng đều có chợ phiên họp theo các ngày âm lịch và ít trùng nhau, những chợ lớn thì ngày nào cũng họp. Tuy nhiên tầng lớp thương nhân trong đồng bào Nùng còn rất ít, dường như là không đáng kể. 5. Phương tiện giao thông – vận tải: Đối với những làng bản ở ven quốc lộ (1A, 1B, 2, 3) thì có đường rải nhựa, hoặc đường đá, đất xe ô tô có thể đi lại thuận tiện vào mùa khô, còn vào mùa mưa thì phương tiện đi lại khá khó khăn. Đối với các đường liên thôn, nhất là vùng cao thì chủ yếu chỉ có đường đất lối mòn cho người đi bộ hoặc nghựa thồ, xe trâu. Phương tiện đi lại chủ yếu ở đay là đi bộ với chiếc đòn gánh cổ truyền bằng tre hay gỗ trên vai cùng với đôi dậu (bồ đan) đây là phương tiện vận chuyển phổ của nhóm nhóm Tày – Thái ở phía Bắc. Vận chuyển bằng sức kéo của gia súc có nghự thồ, trâu kéo dùng để kéo gỗ.. Xe cút kít và loại xe đạp thồ trong thời gian gần đay bđã được sử dụng phổ biến đối với những vùng có đường sá thuận lợi. Ở những vùng sông suối, ngòi, lạch về việc đi lại, vận chuyển hang hóa bằng đường thủy cũng đã được sử dụng thời xa xưa. Ngày nay người Nùng đã và đang xây dựng những con đường mạch giao thông liên lạc giữa các vùng miền. C. KẾT LUẬN. Người Nùng hình thành và phát triển trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng chính trong quá trình đó đã có những cống hiến cho sự nghiệp chung của dân tộc Việt Nam. Người Nùng cũng như người Tày đều thuộc các cộng đồng Lạo hay Đày (Tày). Tuy người Nùng có nguồn gốc từ người Tày xưa (cùng từ Trung Quốc di cư sang) nhưng ở người Nùng ngoài những nét tương đồng về văn hóa với người Tày, Thái thì người Nùng cũng có những đặc điểm riêng về văn hóa cũng như về ngôn ngữ sinh hoạt. Hiện nay tuy có nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế, xã hội nhưng sự nghiệp giáo dục văn hóa, y tế ở khu vực của người Nùng mạng lước tổ chức, cán bộ, học sinh viên là những bước phát triển quan trọng. Đội ngủ tri thức cán bộ cơ cấu ngành các cấp phát triển, chiếm tỉ lệ đáng kể trong cơ quan nhà nước ở địa phương. Sự gần gũi, sự cố kết và những đặc điểm văn hóa chung ngày càng tăng sẽ là những kết quả của sự tiến bộ to lớn của sự phát triến xã hội cho dân tộc Nùng và cũng là cho đất nước. Đồng thời những tiến bộ đó sẽ thúc đẩy các cư dân Nùng phát triển cao về mọi mặt, tiến đến sự văn minh và hiện đại hơn trong tương lai. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. "Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam" NXB Khoa học xã hội. Hà Nội 1968. 2. Nông Minh Châu "Dân ca đám cưới Tày – Nùng", NXB Việt Bắc (1973). 3. "Các dân tộc ít người ở Việt Nam" NXB Khoa học xã hội, Hà Nội (1978) 4. Vi Hồng "Sli, lượn dân ca trữ tình Tày, Nùng", NXB Văn Hóa (1979). 5. Lã Văn Lô, Hà Văn Thư "Văn hóa Tày - Nùng", NXB Văn hóa (1984). 6. Viện dân tộc học "Các dân tộc Tày, Nùng ở Việt Nam" (1992). 7. Hoàng Quyết, Ma Khách Bằng, Hoàng Huy Phách, Cung Văn Lược, Vương Toàn "Văn hóa truyền thống Tày - Nùng", NXB Văn hóa dân tộc (1993). 8. Đàm Thị Uyên. "Văn hóa dân tộc Nùng ở Cao Bằng" (Đề tài cấp bộ 2004). 9. Nguyễn Thị Ngân "Tang ma của dân tộc Nùng ở Việt Nam" (Đề tài cấp bộ 2004). 10. Dân tộc học đại cương. 11. Trang Web: Google.com.vn