Đề bài: Cảm nhận khi đọc đoạn trích Chí khí anh hùng qua phép thử của hạnh phúc lứa đôi. Trích: Truyện Kiều - Nguyễn Du Bài làm: Đoạn trích Chí khí anh hùng từ câu 2213 đến câu 2230 trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường. Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thúy Kiều luôn sống trong tâm trạng chán chường, tuyệt vọng: Biết thân chạy chẳng khỏi trời, Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh. Thế rồi Từ Hải đột nhiên xuất hiện. Từ Hải tìm đến với Thúy Kiều như tìm đến với tri âm, tri kĩ. Trong vũng lầy nhơ nhớp của chốn lầu xanh, Từ Hải đã tinh tường nhận ra phẩm chất cao quý của Thúy Kiều và với con mắt tinh đời, ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên Kiều đã thầm khẳng định Từ Hải là người duy nhất có thể tát cạn bể oan cho mình. Nàng khiêm nhường bày tỏ: Rộng thương cỏ nội hoa hèn, Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau Hai người, một là gái giang hồ, một đang làm "giặc", đều thuộc hạng người bị xã hội phong kiến khinh rẻ nhất, đã đến với nhau tâm đầu ý hợp trong một mối tình tri kỉ. Từ Hải đánh giá Kiều rất cao, còn Kiều nhận ra Từ là đấng anh hùng. Nhưng tình yêu không thể giữ chân Từ Hải được lâu. Đã đến lúc Từ Hải ra đi để tiếp tục tạo lập sự nghiệp. Đoạn trích này cho thấy một Từ Hải đầy chí khí anh hùng, mà cũng đượm chút cô đơn, trống trải giữa đời. Trước sau đối với Từ Hải, Nguyễn Du vẫn dành cho chàng thái độ trân trọng và kính phục, ở chàng, nhất cử nhất động đều thể hiện rõ chí khí, cốt cách anh hùng. Trên con đường tạo dựng nghiệp lớn, cuộc hôn nhân bất ngờ giữa chàng với Thúy Kiều chỉ là phút chốc nghỉ ngơi, chứ không phải là điểm âm, tri kỉ và cuộc hôn nhân của họ đang hạnh phúc hơn bao giờ hết. Ấy vậy mà, chỉ mới sáu tháng vui hưởng hạnh phúc bên Thúy Kiều, Từ Hải đã lại động lòng bốn phương, dứt khoát lên đường, tiếp tục sự nghiệp lớn lao đang còn dang dở: Nửa năm hương lửa đương nồng, Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương. Trông vời trời bể mênh mang, Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong. Từ Hải được tác giả miêu tả là con người đa tình, nhưng trước hết Từ Hải là một tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ. Chí là mục đích cao cả hướng tới, khí là nghị lực để đạt tới mục đích, ở con người này, khát khao được vẫy vùng giữa trời cao đất rộng như đâ trở thành một khát vọng bản năng tự nhiên, không có gì có thể kiềm chế nổi. Trước lúc gặp gỡ và kết duyên với Thúy Kiều, Từ Hải đã là một anh hùng hảo hán: Dọc ngang nào biết trên đầu có ai, đã từng: Nghênh ngang một cõi biên thùy. Cái chí nguyện lập nên công danh, sự nghiệp ở chàng là rất lớn. Vì thế không có gì cản được bước chân chàng. Dù Nguyễn Du không nói cụ thể là Từ Hải ra đi làm gì nhưng nếu theo dõi mạch truyện và những câu chàng giải thích để Thúy Kiều an lòng thì người đọc sẽ hiểu cả một sự nghiệp vinh quang đang chờ chàng ở phía trước. Từ Hải không phải là con người của những đam mê thông thường mà là con người của sự nghiệp anh hùng. Đang sống trong cảnh nồng nàn hương lửa. Từ chợt động lòng bốn phương, thế là toàn bộ tâm trí hướng về trời biển mênh mang, và lập tức một minh với thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong. Chữ trượng phu trong Truyện Kiểu chỉ xuất hiện một lần dành riêng đã nói về Từ Hải. Điều đó cho thấy Nguyễn Du đã dùng từ Trượng phu với nghĩa Từ Hải là người đàn ông có chí khí lớn. Chữ thoắt thể hiện quyết định nhanh chóng, dứt khoát cùa chàng. Bôn chữ động lòng bốn phương nói lên được cái ý Từ Hải: Không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương - Hoài Thanh. Động lòng bốn phương là thấy trong lòng náo nức cái chí tung hoành khắp bốn phương trời. Con người phi thường như chàng chẳng thể giam hãm mình trong một không gian chật hẹp. Chàng nghĩ rất nhanh, quyết định lại càng nhanh. Một thanh gươm, một con tuấn mã, chàng hối hả lên đường. Ấy là bởi khát vọng tự do luôn sôi sục trong huyết quản của người anh hùng. Hoài Thanh bình luận: Qua câu thơ, hình ảnh của con người "thanh gươm yên ngựa" tưởng như che đầy cả trời đất. Trong cảnh tiễn biệt, tác giả tả hình ảnh Từ Hải: Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong trước rồi mới đế cho Từ Hải và Kiều nói những lời tiễn biệt. Có người cho rằng nếu như vậy thì Thúy Kiều còn nói sao được nữa? Có lẽ tác giả muốn dựng cảnh tiễn biệt này khác hẳn cảnh tiễn biệt giữa Thúy Kiều - Kim Trọng, Thúy Kiều - Thúc Sinh. Từ Hải đã ở tư thế sẵn sàng lên đường. Chàng ngồi trên yên ngựa mà nói những lời tiễn biệt với Thúy Kiều. Sự thật có phải vậy không? Không chắc, nhưng cần phải miêu tả như thế mới biểu hiện được sự quyết đoán và cốt cách phi thường của Từ Hải. Thúy Kiều biết rõ Từ Hải ra đi sẽ lâm vào tình cảnh bốn bể không nhà, nhưng vẫn khẩn thiết xin được cùng đi, nàng rằng: Phận gái chữ tòng, chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi. Ngắn gọn thế thôi, nhưng quyết tâm thì rất cao. Chữ tòng ở đây không chỉ có nghĩa như trong sách vở thánh hiền của dạo Nho: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, mà còn ngụ ý tiếp sức, chia sẻ nhiệm vụ, muốn cùng được gánh vác với chồng. Lời Từ Hải nói trong lúc tiễn biệt càng thể hiện rõ chí khí anh hùng của nhân vật này: Từ rằng: Tâm phúc tương tri, Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình? Bao giờ mười vạn tinh binh, Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp dường. Làm cho rõ mặt phi thường, Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia. Bằng nay bốn bể không nhà, Theo càng thêm bận biết là đi đâu? Đành lòng chờ đó ít lâu, Chầy chăng là một năm sau vội gì! Đã là tâm phúc tương tri có nghĩa là hai ta đã hiểu biết lòng dạ nhau sâu sắc, vậy mà sao, dường như nàng chưa thấu tâm can ta, nên chưa thoát khỏi thói nữ nhi thường tình. Lẽ ra, nàng phải tỏ ra cứng cỏi để xứng là phu nhân của một bậc trượng phu. Lí tưởng anh hùng của Từ Hải bộc lộ qua ngôn ngữ mang đậm khẩu khi anh hùng. Khi nói lời chia tay với Thúy Kiều chàng không quyến luyến, bịn rịn vì tình chồng vợ mặn nồng mà quên đi mục đích cao cả. Nếu thực sự quyếu luyến, Từ Hải sẽ chấp nhận cho Thúy Kiều đi theo. Từ Hải là con người có chí khí, khát khao sự nghiệp phi thường nên không thể đắm mình trong chốn buồng the. Đang ở trong cảnh hạnh phúc ngọt ngào, tiếng gọi của sự nghiệp thôi thúc từ bên trong. Từ Hải quyết dứt áo ra đi. Giờ đây, sự nghiệp đối với chàng là trên hết. Đối với Từ Hải, nó chẳng những là ý nghĩa của cuộc sống mà còn là điều kiện để thực hiện những ước ao mà người tri kỉ đã gửi gắm, trông cậy ở chàng. Do vậv mà không có những lời than vãn buồn bã lúc chia tay. Thêm nữa, trong lời trách Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình còn bao hàm ý khuyên Thúy Kiều hãy vượt lên tình cảm thông thường để xứng đáng là vợ của một anh hùng. Cho nên sau này trong nỗi nhớ của Kiều: Cánh hồng bay bổng tuyệt vời, Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm, không chỉ có sự mong chờ, mà còn có cả hi vọng vào thành công và vinh quang trong sự nghiệp của Từ Hải. Từ Hải là con người rất mực tự tin. Trước đây, chàng đã ngang nhiên xem mình là anh hùng giữa chốn trần ai. Giờ thì chàng tin rằng tất cả sự nghiệp như đã nắm chắc trong tay. Dù xuất phát chỉ với thanh gươm yên ngựa, nhưng Từ Hải đã tin rằng mình sẽ có trong tay mười vạn tinh binh, sẽ trở về trong hào quang chiến thắng Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường, để rõ mặt phi thường với Thúy Kiều, để đem lại vẻ vang cho người phụ nữ mà chàng hết lòng yêu mến và trân trọng. Từ Hải đã khẳng định muộn thì cũng không quá một năm, nhất định sẽ trở về với cả một cơ đồ to lớn. Không chút vấn vương, bi lụy, không dùng dằng, quyến luyến như trong các cuộc chia tay bình thường khác, Từ Hải có cách chia tay mang đậm dấu ấn anh hùng của riêng mình. Lời chia tay mà cũng là lời hứa chắc như đinh đóng cột; là niềm tin sắt đá vào chiến thắng trong một tương lai rất gần. Hai câu thơ cuối đoạn đã khẳng định thêm quyết tâm ấy: Quyết lời dứt áo ra đi, Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi. Nguyễn Du mượn hình ảnh phim bằng (đại bàng) trong văn chương cổ điển, thường tượng trưng cho khát vọng của những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, muốn làm nên sự nghiệp lớn lao để chỉ Từ Hải. Cuộc ra đi đột ngột, không báo trước, thái độ dứt khoát lúc chia tay, niềm tin vào thắng lợi.. tất cả đều bộc lộ chí khí anh hùng của Từ Hải. Đã đến lúc chim bằng tung cánh bay lên cùng gió mây chín ngàn dặm trên cao. Hình ảnh: Gió mây bằng đã đến kì dặm khai là mượn ý của Trang Tử tả chim bằng khi cất cánh lên thì như đám mây ngang trời và mỗi bay thì chín vạn dậm mới nghỉ, đối lập với những con chim nhỏ chỉ nhảy nhót trên cành cây đã diễn tả những giây phút ngáy ngất say men chiến thắng của con người phi thường lúc rời khỏi nơi tiễn biệt. Hình tượng người anh hùng Từ Hải là một sáng tạo đặc sắc của Nguyễn Du về phương diện cảm hứng và nghệ thuật miêu tả. Qua đó thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ của nhà thơ trong việc diễn tả chí khí anh hùng cùng khát vọng tự do của nhân vật Từ Hải. Từ Hải là hình ảnh thể hiện mạnh mẽ cái ước mơ công lí vẫn âm ỉ trong cảnh đời tù túng của xã hội cũ. Từ Hải ra đi để vẫy vùng cho phỉ sức, phỉ chí, nhưng nếu hiểu kỹ càng còn thêm một lí do nữa là vì bất bình trước những oan khổ của con người bị chà đạp như Thúy Kiều thì không hẳn là không có căn cứ. Điều chắc chắn là cái khao khát của Từ Hải muốn được tung hoành trong bốn bể để thực hiện ước mơ công lí chứ không bao giờ nhằm mục đích thiết lập một ngai vàng quyền lực tầm thường. Nguyễn Du đã thành công trong việc chọn lựa từ ngữ, hình ảnh và biện pháp miêu tả có khuynh hướng lí tưởng hóa để biến Từ Hải thành một hình tượng phi thường với những nét tính cách đẹp đẽ, sinh động. Đoạn trích tuy ngắn nhưng ý nghĩa lại rất lớn. Nó góp phần tô đậm tính cách của người anh hùng Từ Hải - nhân vật lí tưởng, mẫu người đẹp nhất trong kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Đề bài: Phân tích, bình giảng tác phẩm Chí khí anh hùng - Ngữ Văn 10 Bài làm: Từ Hải là một giấc mơ của Nguyễn Du: Giấc mơ anh hùng, anh hùng cái thế. Thông thường, để làm nổi bật phẩm chất anh hùng của một hình tượng nhân vật, người ta hay đặt nhân vật vào hoàn cảnh đặc thù là đối mặt với gian nan thử thách. Dân gian vẫn có câu 'Lửa thử vàng gian nan thử sức ", lại có câu" Gian nan là nợ anh hùng phải vay "là thế. Phải chiến thắng được những gian nan thử thách ấy thì mới khẳng định được bản lĩnh và chí khí anh hùng. Những gian nan thử thách nào vậy? Thử thách ngoài mình và thử thách trong mình. Thắng những thế lực ngoài mình đã khó, thắng những thế lực ngay trong mình còn khó hơn. Thắng kẻ địch, thắng thiên nhiên đã khó, nhưng thắng những thói thường trong mình còn khó gấp bội. Không ít người chiến thắng được uy vũ, nhưng lại gục ngã trước những mời mọc đầy cám dỗ trong mình. Mà rốt cuộc, nói đến anh hùng là nói đến cái phi thường. Muốn làm chuyện phi thường thì cũng cần phải thắng được cái bình thường. Nguyễn Du không chỉ khắc họa Từ Hải lập nên nhiều kì tích phi thường, ông còn làm nổi bật tính cách anh hùng của Từ Hải khi đặt nhân vật đối mặt và vượt lên cái bình thường. Đoạn trích Chí khí anh hùng này là thế. Ở đây có những vướng bận gia đình, có" thói nữ nhi thường tinh ". Nên bề ngoài có thể xem cái gian nan thử thách trong lòng mà Từ phải đối mặt để giải quyết là vấn đề" anh hùng và mĩ nhân "- mĩ nhân cản bước, còn anh hùng thì vượt ải mĩ nhào. Nghĩ thế không sai, nhưng cũng không hẳn. Xem kĩ, Kiều đâu có cản bước Từ, Từ đâu có rũ bỏ Kiều. Vậy, có thể coi đó là mối mâu thuẫn giữa hạnh phúc lứa đôi và lí tưởng anh hùng chăng? Cũng không hẳn. Sau khi chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, Từ đã có Kiều, đã sống cùng mĩ nhân. Nhưng chỉ vậy thôi là chưa thỏa. Điều Từ Hải muốn đó là phải tạo được sự nghiệp anh hùng nữa, bấy giờ trai anh hùng mới thật xứng với gái thuyền quyên. Nghĩa là Từ muốn hướng tới một hạnh phúc phi thường. Chỉ bao giờ được thế, Từ mới thỏa chí. Cho nên, xét cho cùng đó là mối mâu thuẫn giữa hạnh phúc nhỏ – bình thường và hạnh phúc lớn – phi thường. Không cần phải đọc kĩ lắm cũng có thể íhấy đoạn thơ đã tự hình thành hai phần nhỏ hơn. Phần một gồm bốn câu đầu: Hình ảnh lên đường của Từ Hải. Phần hai là đoạn còn lại: Cuộc đối thoại Từ Hải – Thúy Kiều khi Từ dứt áo ra đi. Cũng lạ, Nguyễn Du dựng cảnh Từ Hải lên đường trước, rồi lời từ biệt mới đến sau. Ở đây, dù chưa phải là khung cảnh nhân vật đang chọc trời khuấv nước, Nguyễn Du vẫn làm nổi lên tầm vóc của Từ. Hơn nữa, chưa phải bộc lộ minh bằng hành vi, mà mới chỉ qua lời nói – iời nói với vợ thôi, chí khí anh hùng của Từ Hải cũng đã toát lên mãnh liệt. Từ Hải ít được mô tả trong không gian tổ ấm. Điều này có lí của nó: Tổ ấm thường tình không phải là cái không gian hợp với tầm vóc kẻ phi thường, nếu không nói ỉà không gian ấy sẽ tù hãm người anh hùng. Ra khỏi cái tổ ấm hương lửa đương nồng của hạnh phúc lứa đôi, Từ mới thực là Từ. Đúng thế, Từ Hải chỉ thực sự là mình trong không gian tròi đất: Nửa năm hương lửa đương nồng, Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương. Trông vời trời bể mênh mang, Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong. Sự nồng nàn của tình yêu, vị ngọt ngào của hạnh phúc có thê là chất xúc tác, cũng có thể là chất bào mồn chí khí kẻ anh hùng. Mĩ nhân có thể là động lực của kẻ anh hùng, cũng có thể đánh đắm những sự nghiệp anh hùng. Sau này, Chế Lan Viên có nói đến cái hình ảnh" Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp – Một mái nhà yên rủ bónq xuống tâm hồn "là cũng theo nghĩa bào mòn, đánh đắm ấy, chúng từng là giấc mơ con đè nát bao cuộc đời cỏn con. Từ Hải khác. Mỹ nhân, hạnh phúc chỉ mới là một nửa đòi chàng. Tinh nhân lãng mạn mới chỉ là một nửa con người chàng. Từ còn một nửa khác: Một khách anh hùng với sự nghiệp cái thế. Một chữ" thoắt "đã cho thấy tính cách anh hùng của Từ. Đó là sự thức dậy mau lẹ của con người anh hùng trong kẻ phi thường này. Thì ra, Từ sinh ra không phái để làm con người của một mái nhà. Trái lại, Từ sinh ra là thuộc về bốn phương. Ngang dọc bốn phương mới thục sự là sứ mạng, thực sự là cuộc sống của chàng. Rời khỏi một mái ấm, Từ đến với không gian thực của minh: Không gian càn khôn trời đất. Trong Truyền Kiểu, chữ" thoắt "thường chứa đựng những biến cố, đôi khi là biến cố trọng đại. Có thể đó là biến cố đầy ngang trái" Thoắt mua về thoắt bán đi ". Có thế đó là biến cố đau thương" Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương ".. Chữ" thoắt "nàv diễn ra âm thầm, nhưng thực sự cũng chứa đựng một biến cố lớn của đời Từ. Bắt đầu từ giây phút ấy, Từ mới thực sự sống rồi chết lẫm liệt như một anh hùng cái thế. Và như vậy, chữ" thoắt "đã chia đời Từ Hải làm hai thật rành rẽ: Nó là dấu ngắt cho một bản tình ca hùng tráng đồng thời mở đầu cho bản hùng ca bi tráng. Đúng là Nguyễn Du đã khắc họa Từ Hải thật hoành tráng: Trông vời trời bể mênh mang, Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong. Đó là hình tượng tráng sĩ. Người đọc thơ cổ điển có thể liên tưởng đến một nhân vật khác cũng thuộc thế kỉ VXIII, trong Chinh phụ ngâm: Áo chàng đỏ tựa ráng pha, Ngựa chùng sắc trắng như là tuyết in. Cả hai đều toát lên vẻ oai phong lẫm liệt đầy chất lí tưởng của những trang hào kiệt. Nhưng, nếu chàng chinh phu được tô điểm bằng sắc màu lãng mạn trong cái nhìn kiêu hãnh và trìu mến của nàng chinh phụ. Thì Từ Hải lại được tạo hình bằng đường nét ngạo nghễ trên cái nền kì vĩ của không gian. Một đằng Lẫm liệt cùng sắc phục, một đằng mênh mang với khát vọng. Đằng là vẻ đẹp quý phái, đằng Là vẻ đẹp phong trần. Có thể nói, bên cạnh những hình ảnh" chọc trời khuấy nước mặc dầu – Dọc ngang nào biết trên đầu có ai ", hay" Phong trần mài một lưỡi gươm – Những phường giá áo túi cơm xá gì "," Gươm đùn nửa gánh non sông một chèo ".. thì" Trông vời trời bể mênh mang – Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong "cũng là một bức chân dung hết sức hoàn hảo mà Nguyễn Du đã dành cho Từ Hải. Đoạn hai là một màn đối thoại. Lời tác giả nhường hẳn cho lời nhân vật. Các nhân vật bộc lộ phẩm cách của mình qua ngôn ngữ của chính mình. Nếu ở Thúy Kiều là lối nói đúng mực của người đàn bà nền nếp, trọng bổn phận đạo lí, nhưng cũng không thiếu kiên tâm, thì ở Từ Hải là lối nói sắt đá, quyết đoán của một bậc trương phu, song cũng không phải vô tình. Kiều viện đạo phu thê, Từ lại viện đạo tri kỉ. Kiều ứng xử theo lẽ binh thường. Từ ứng xử theo lối phi thường. Nàng muốn được theo chân Từ Hải: Nàng rằng: Phận gái chữ tòng, Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi! Kiều viện ra đạo lí phu thê thường tinh vừa như một lí lẽ vừa như một thể nguyền để thuyết phục Từ Hải. Nàng muốn được kề vai sát cánh chia ngọt sẻ bùi cùng chồng. Còn Từ Hải có chấp thuận cái thường tình không? Chấp thuận cái thường tình thì còn đâu là kẻ phi thường. Đó không thể là cung cách Từ Hải. Nhưng Từ cũng không nỡ gạt đi một cách lạnh lùng, mà cũng viện ra những lí lẽ riêng để thuyết phục Kiều. Chàng xuất phát từ đạo lí khác: Đạo lí tri kỉ. Từ Hải xem đạo tri kỉ cao trọng hơn đạo phu thê. Một khi đã là tri kỉ, hiểu rõ lòng dạ của nhau, thì không nên câu nệ lẽ phu thê theo thói thường của người đời: Từ rằng: Tâm phúc tương tri Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình? Rồi Từ bộc bạch cái chí phi thường của mình. Đó là chí của một người muốn dựng nghiệp vương bá: Bao giờ mười vạn tinh binh, Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường. Làm cho rõ mặt phi thường, Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia. Bằng nay bốn bể không nhà, Theo càng thêm bận, biết là đi đâu? Đành lòng chờ đó ít lâu, Chầy chăng là một năm sau, vội gì! Từ Hải sẽ xây dựng cơ đồ huy hoàng của một bậc vương bá để xứng đáng với Kiều. Cũng có nghĩa: Lúc Từ tạo dựng xong nghiệp vương nghiệp bá cho mình cũng tức là đưa Kiều lên địa vị một mệnh phụ phu nhân. Chỉ khi đạt được điều ấy, Từ mới rước nàng về. Vậy nên cái hạnh phúc mà Từ Hải muốn hướng tới đâu chỉ là chút" hương lửa đương nồng "trong một mái ấm của đời thường. Mà chính là một hạnh phúc phi thường: Hạnh phúc của bậc anh hùng cái thế. Từ muốn một minh thực hiện điều đó. Từ cũng không muốn vì điều đó mà Kiều phải bận lòng và làm vướng bận mình. Điều kinh ngạc là cái việc kinh thiên động địa ấy, Từ hoàn toàn tin rằng mình chỉ thực hiện chóng vánh trong một năm! Nghĩa là cái việc vá trời lấp biển ấy với Từ chả khó khăn gì, chỉ như trở bàn tay. Ngẫm ra, cái sự nghiệp hướng tới đã là phi thường. Cái thời lượng dành cho việc phi thường ấy lại chẳng lâu la gì. Cái cách đạt được nó xem ra cũng chẳng khó khăn gì. Ngần ấy hội lại chẳng đã đủ làm rõ mặt phi thường của con người Từ Hải hay sao? Hai câu kết của đoạn trích lại trở về với lời của tác giả. Nguyễn Du mô tả Từ Hải ra đi với lời nói quả quyết, cử chỉ dứt khoát, dáng hình tựa như cánh chim bằng cất mình bay thẳng vào muồn trùng dặm khơi vậy: Quyết lời dứt áo ra đi, Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi. Mở đầu với dáng điệu" Trông vời trời bể mênh mang ", kết thúc với" Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi "– toàn những tư thế hoành tráng, chiều kích kì vĩ – Từ Hải đã hiện ra như một tính cách phi thường lồng lộng giữa càn khôn. Có thể nói đó là bút pháp lí tưởng hóa nhằm vẽ ra một con người lí tưởng để thực hiện giấc mơ anh hùng của ngòi bút Nguyễn Du. Văn mẫu: Một số người nghĩ rằng đoạn đối thoại này là do Nguyễn Du sáng tạo ra không có trong Kim Vân Kiều truyện. Sự thực không hoàn toàn như vậy. Trong tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân vẫn có, nhưng nó được đặt trong bối cảnh Từ Hải chuộc Kiều ra, không đưa Kiều về quê nhà mà lại dựng một tòa nhà để cùng ăn ở với Thúy Kiều. Trong bài viết Một phương diện của thiên tài Nguyễn Du:" Từ Hải "đăng trên báo Thanh nghị, số 36, tháng 5 -1943, nhà phê bình Hoài Thanh viết:" Thực suốt cả quyển Đoạn trường tân thanh tức là Truyện Kiều không có chỗ nào ngòi bút Nguyễn Du hân hoan bằng những khi Từ Hải nói hay nói đến Từ Hải (). Biết đâu Từ Hải chẳng là cái mộng tưởng lớn nhất trong đời Nguyễn Du ". Nhân xét và phỏng đoán (có màu sắc khẳng định) nói trên của nhà phê bình thật đáng được chia sẻ, một khi ta đã đọc kĩ Truyện Kiều và hơn thế nữa đọc đến những tác phẩm văn học Trung Hoa xưa có nói đến nhân vật Từ Hải, nhất là Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tàm Tài Nhân - cuốn sách mà Nguyễn Du đã dựa vào đó để dựng nên kiệt tác của mình. Từ Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là một anh hùng toàn vẹn. Từ" anh hùng "và cùng với nó là những từ có cùng trường nghĩa luôn hiện khi nhà thơ nói đến chàng dù thông qua lời trần thuật hay lời nhân vật khác. Thậm chí, nhà thơ đã để cho nhân vật nhiều lần tự xưng mình là anh hùng - một con người tự tin đến thế là cùng! Dĩ nhiên, muốn chứng minh nhân vật của mình là anh hùng, riêng việc dùng từ như trên chưa đủ. Nguyễn Du rất hiểu điều đó, vì vậy đã dụng tâm tạo dựng một không gian riêng - không gian mở, không gian bao la - để Từ Hải xuất hiện. Bên cạnh đó, nhà thơ cũng không quên vận dụng cách thức miêu tả ngoại hình và hành động có tính ước lệ, khoa trương để tô đậm cốt cách hơn người, hơn đời của Từ Hải. Nói tóm lại để thấy được chí khí anh hùng ở con người này, ta có thể giở bất cứ trang nào trong Truyện Kiều có nhắc đến hai chữ Từ Hải, hay nhắc đến hành tích, sự nghiệp và cả kết cục số phận của chàng. Tuy nhiên, dù điều trên là có thật, nhiều người vẫn muốn chú ý trước hết đến tình huống Từ Hải tạm biệt Thúy Kiều để lên đường theo đuổi nghiệp lớn. Ai bảo khí phách anh hùng của một kẻ nam nhi chỉ được thể hiện rõ nét khi anh ta đứng giữa vòng tên đạn bời bời? Nguyễn Du không hoàn toàn nghĩ thế. Ông dụng tâm miêu tả sâu cách ứng xử của Từ Hải với mĩ nhân, với hạnh phúc được sống cùng mĩ nhân, qua đó mà làm bật nổi cốt cách hơn đời có ở chàng. Nghĩ cho cùng, đây là một lựa chọn nghệ thuật tuyệt đối phù hợp. Bao giờ mĩ nhân chả là một cửa ải khó vượt đối với những kẻ nam phi, những bậc anh hùng? Trước đoạn kể buổi Từ Hải lên đường, Nguyễn Du chỉ nói hết sức vắn tắt về cuộc sống hạnh phúc của cặp" Trai anh hùng, gái thuyền quyên ". Ông không rề rà miêu tả, dù rề rà một chút trong trường hợp này cũng có thể chấp nhận được, bởi tâm lí độc giả vẫn muốn dành thêm ưu ái cho Thúy Kiều - một con người đã nếm trải vô số bất hạnh trong cuộc đời. Không, nhà thơ quá hiểu Từ Hải. Một khi nghiệp lớn chưa thành, chàng không đành tâm vui hưởng hạnh phúc, với mĩ nhân, dù người đó là hồng nhan tri kỉ. Và chàng đã ra đi giữa lúc khó ra đi nhất, giữa lúc ái tình đang tỏa hương ngây ngất. Nửa năm hương lửa đương nồng Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương. Trông vời trời bể mênh mang Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong. Từ thoắt cùng với chi tiết" lên đường thẳng rong "đã vẽ lên rất linh hoạt tính cách của một con người hành động, làm việc gì cũng nhanh chóng, dứt khoát. Ai cũng biết Từ Hải rất yêu, rất trọng Kiều, nhưng cái chí tung hoành giữa bốn phương vẫn lớn hơn giúp chàng vượt qua trạng thái bịn rịn, nhùng nhằng một cách nhẹ nhàng. Từ Hải là con người biết sống cho tình yêu nhưng cũng là con người của mênh mang trời bể. Đây chính là chỗ phân biệt chàng với những nhân vật đàn ông khác tùng yêu nàng Kiều như Kim Trọng và Thúc Sinh. Vả chăng, chàng ra đi cũng là để gây dựng một cuộc sống mới, cho chàng và cả chính nàng Kiều nữa. Chàng không đứng khoanh tay chờ đợi sự ưu ái của số phận, của cuộc đời hay ngồi phấp phỏng âu lo vì những điều bất hạnh khó dự liệu sẽ tới. Chàng biết chủ độnggiành lấy cái mà chàng thấy mình cùng người tri kỉ đáng được hưởng. Đoạn đối thoại sau đã làm rõ tất cả những điều đó: Nàng rằng: Phận gái chữ tòng, Chàng đi, thiếp cũng một lòng xin đi. Từ rằng: Tâm phúc tương tri, Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình? Bao giờ mười vạn tinh binh Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường. Làm cho rõ mặt phi thường Bây giờ ta sẽ rước nàng nghi gia. Bằng nay bốn bể không nhà Theo càng thêm bận, biết là đi đâu? Đành lòng chờ đó ít lâu Chầy chăng là một năm sau, vội gì! Quả có một cái gì đó như là sự vô lí trong trình tự kể của tác giả: Tại sao lại nói chuyện Từ Hải" lên đường thẳng rong "trước chuyện hai người đối thoại với nhau? Đây là một cái" lỗi "trong nghệ thuật trần thuật hay là sự cố ý? Theo Tản Đà, Nguyễn Du đã" vội lời ". Kể ra nhận xét như thế cũng chẳng sai. Nhưng nếu hiểu rằng trong nghệ thuật viết tiểu thuyết, trình tự kể không nhất thiết phải ứng khớp với trình tự của câu chuyện được kể, nó là một cái gì mang tính ước lệ, thì ta lại thấy Nguyễn Du có cái lí của mình. Ông không để cái tiểu tiết làm hại tinh thần chung của một đoạn thơ có mục tiêu làm rõ sự dứt khoát trong hành động của người anh hùng Từ Hải. Vả chăng có thể biện minh rằng: Từ Hải tuy chưa thực sự cất bước ra đi nhưng chí của chàng thì đã ruổi rong cùng thanh gươm, yên ngựa. Nói thẳng một lèo như thế, câu thơ dễ gây ấn tượng về một con người có hành tung như ngọn gió vừa mới thấy đây mà phút chốc thân đã ởngoài muôn dặm. Một số người nghĩ rằng đoạn đối thoại này là do Nguyễn Du sáng tạo ra không có trong Kim Vân Kiều truyện. Sự thực không hoàn toàn như vậy. Trong tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân vẫn có, nhưng nó được đặt trong bốicảnh Từ Hải chuộc Kiều ra, không đưa Kiều về quê nhà mà lại dựng một tòa nhà để cùng ăn ở với Thúy Kiều. Khi Kiều thắc mắc chàng mới nói rõ sự tình:" Chứ như nay, ta chỉ trơ trọi một mình, khi đưa nàng nào biết về đâu? ". Nguyễn Du có cách xử lí nghệ thuật khác, tuân theo cấu trúc tự sự riêng của chính Truyện Kiều và cũng hợp với tính cách các nhân vật của ông hơn. Ông không để cho Kiều thắc mắc về những điều vụn vặt, cũng không để cho Từ Hải nói những lời chưa phải lúc. Ông thích quan sát nhân vật trong những cuộc chia tay và muốn những cuộc chia tay đó phải nói được một điều gì lớn hơn chính bản thân sự việc được kể. Hãy xem Từ Hải đã" đả thông tư tưởng "cho nàng Kiều như thế nào khi nàng một lòng xin đi. Thoạt tiên, chàng trách nàng" Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình? ". Trách nhưng thực chất là đề cao, bởi trong suy nghĩ của chàng, Kiều là người" tâm phúc tương trí "và chàng muốn nàng luôn như vậy. Đã nói đến chuyệntương tri, bao nhiêu tâm sự, hoài bão phút chốc được biểu lộ. Thì ra chàng có tâm nguyện" Làm cho rõ mặt phi thường ", muốn sự tồn tại của mình giữa cuộc đời phải đặc biệt có ý nghĩa. Chàng không chấp nhận sự vô danh. Khi chưa đạt được điều ấy thì chàng chưa thể an hưởng hạnh phúc. Khái niệm hạnh phúc của chàng có một nội hàm riêng. Hạnh phúc là hạnh phúc của kẻ làm nên nghiệp lớn, và điều rất đáng chú ý nữa là hạnh phúc của việc biết đem nghiệp lớn để tặng cho người mình yêu. Chàng tự thấy trong thời điểm hiện tại, nghi lễ đón rước Kiều chưa thật xứng với phẩm chất của nàng, ít nhất đó là một việc đòi hỏi chàng phải ra tay. Phân tích đến đây, ta bỗng phân vân không biết nên gọi Từ Hải là gì cho đúng. Một anh hùng có cốt cách phong lưu hay một kẻ phong lưu tràn đầy khí chất anh hùng? Có lẽ nói thế nào cũngphải tùy theo góc độ nhìn nhận, bởi Từ Hải là một nhân cách đã tích hợp được tất cả những phẩm chất đó. Nếu nhấn mạnh vào cốt cách phong lưu ta có thể quên lưu ý lời dặn dò ân cần cùng sự thu xếp chu đáo mà chàng đã thể hiện với nàng Kiều. Nếu nhấn mạnh vào khí độ anh hùng, ta lại phải hết sức tán thưởng lời nói đầy quyết đoán, tự tin" Chầy chăng là một năm sau, vội gì ". Đang lúc bốn bể không nhà mà đã thấy trước một viễn cảnh nào" mười vạn tinh binh ", nào" tiếng chiêng dậy đất ", nào" bóng tinh rợp đường", thì đó quả là con người biết làm chủ cuộc đời mình và biết sắp xếp lại thế giới theo một trật tự mà bản thân mong muốn. Thực tế cho thấy Từ Hải đã làm được điều chàng hứa. Không nghi ngờ gì, đây chính là nhân vật chủ động nhất trong thế giới nhân vật của Truyện Kiều. Giữa cuộc sống đầy những xáo trộn bất trắc mà ở đó con người luôn lâm vào thế bị động, thế bị dồn đuổi, Từ Hải quả là một giấc mơ đẹp của Nguyễn Du và của biết bao người có hùng tâm tráng chí. Trong các đoạn thơ kể về cuộc chia tay giữa Thúy Kiều với Kim Trọng và Thúy Kiều với Thúc Sinh, Nguyễn Du luôn để nàng Kiều lời sau nói hết. Điều đó thật thuận tình và hợp lẽ. Nhưng trong đoạn thơ này, Từ Hải lại là người chấm dứt cuộc đối thoại. Thì Kiều còn biết nói gì hơn! Nàng hiểu Từ Hải và tin chàng, một cách tuyệt đối, ít nhất là trong thời điểm này. Thế rồi Từ Hải ra đi. Như được gió bốc. Hay chính chàng là một trận gió lớn đùng đùng thổi qua đời Kiều? Quyết lời dứt áo ra đi Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi. Chim bằng đã bay đi nhưng tiếng vẫy của nó vẫn còn để lại dư âm, để lại niềm tin tưởng và hi vọng, trong lòng Thúy Kiều và trong lòng bao độc giả mơ ước một cuộc sống tụ do, khoáng đạt!