Thủy Ngân Là Gì? Sự Độc Hại Của Thủy Ngân

Thảo luận trong 'Cuộc Sống' bắt đầu bởi Định Nghĩa, 25 Tháng tư 2016.

  1. Định Nghĩa

    Định Nghĩa Moderator

    Bài viết:
    Tìm chủ đề
    82
    Thủy ngân là một chất kim loại rất độc hại đối với sức khoẻ con người với ký hiệu nguyên tố hóa học là Hg. Còn có tên khác là nước bạc. Trong nhiệt độ thường thủy ngân tồn tại ở dạng lỏng, không tan trong nước nhưng lại bay hơi và lan rất nhanh trong không khí. Chỉ cần 1 lượng rất nhỏ thủy ngân nếu hít phải, ăn hoặc tiếp xúc có thể gây tổn thương vĩnh viễn không hồi phục và tử vong ở người. Chính vì thế mà thủy ngân đặc biệt nguy hiểm nếu gặp phải trong môi trường tự nhiên đối với tính mạng con người và cả hệ sinh thái.

    [​IMG]

    Nhiễm độc thủy ngân từ lâu đã được liệt vào một trong số những thảm họa tồi tệ nhất lịch sử phát triển của nhân loại. Nhiễm độc thủy ngân vịnh Minamata, Nhật Bản những năm 1950 là một tai họa điển hình. Trong suốt 37 năm, Công ty hóa chất Chisso đã đổ 27 tấn metyl thủy ngân ra vịnh Minamata. Vào thời điểm đó, người dân nơi đây sống chủ yếu vào nghề đánh cá. Do sống trong môi trường nước nhiễm độc thủy ngân nên những con cá này chứa chất độc chết người.

    Kết quả là những thai phụ ăn cá nhiễm độc thủy ngân khi sinh con bị dị tật khủng khiếp như bại não, điếc, mù và chậm phát triển trí não. Theo ước tính, 900 người ở Minamata đã chết vì ngộ độc thủy ngân. Những người nhiễm độc nặng thường rú lên vì đau đớn, co giật và bị liệt. Một số bị mù, điếc hoặc mất trí.

    Năm 2016 - tại Hà Nội đã đo được trong không khí có chứa thủy ngân. Đây là một điều đáng báo động vì thủy ngân dạng hơi là độc nhất và rất dễ hít phải hoặc thấm vào cơ thể trực tiếp qua da.

    Trong môi trường, thủy ngân tồn tại dưới 3 dạng: Nguyên tố, vô cơ và hữu cơ.

    Thủy ngân nguyên tố

    Dạng thủy ngân này ít có hại nhất nếu chạm hoặc nuốt phải vì nó hấp thu rất ít ở đường tiêu hóa, dạ dày. Thủy ngân nguyên tố gây độc cho người rất nhanh sau khi hít vào, nó gây tổn thương đường hô hấp, phổi, gan, hệ thần kinh trung ương.

    Các triệu chứng ngộ độc thủy ngân nguyên tố bao gồm nôn, khó thở, ho, sưng và chảy máu chân răng.

    Tùy thuộc vào lượng thủy ngân hít vào, phổi có thể bị tổn thương vĩnh viễn và gây tử vong. Một lượng nhỏ thủy ngân nguyên tố cũng dễ dàng ngấm qua hàng rào mạch máu não và qua nhau thai, gây ảnh hưởng lâu dài đến não bộ và thai nhi.

    Thủy ngân vô cơ

    Không giống thủy ngân nguyên tố, thủy ngân vô cơ thường gây độc khi nuốt phải. Do là chất ăn mòn nên dạng thủy ngân này gây bỏng trực tiếp trên niêm mạc. Nếu xâm nhập vào máu, nó sẽ tích lũy ở thận và não, gây tổn thương vĩnh viễn. Một liều lượng lớn có thể làm mất máu, nước do tiêu chảy, suy thận và tử vong.

    Các triệu chứng phổ biến khi nhiễm độc thủy ngân vô cơ là nóng trong dạ dày, cổ họng, tiêu chảy ra máu và nôn mửa.

    Thủy ngân hữu cơ

    Thủy ngân hữu cơ có thể gây bệnh nếu hít, nuốt và hấp thụ qua da trong thời gian tiếp xúc dài. Nói cách khác, tiếp xúc một lượng nhỏ thủy ngân hữu cơ mỗi ngày trong nhiều năm có thể gây ngộ độc nhiều năm sau đó.

    Nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy tiếp xúc với một lượng thủy ngân hữu cơ mythylmercury trong khi mang thai có thể gây tổn hại vĩnh viễn cho phát triển trí não của thai nhi. Do vậy, hầu hết các bác sĩ đều khuyên phụ nữ mang thai ăn ít cá, đặc biệt là cá kiếm.

    Các triệu chứng chủ yếu do ngộ độc thủy ngân hữu cơ là:

    - Tê hoặc đau ở một số khu vực trên da

    - Run rẩy không kiểm soát

    - Khả năng di chuyển bị hạn chế

    - Không nhìn rõ

    - Mất trí nhớ

    - Co giật và tử vong

    Các chất / đồ vật trong cuộc sống hàng ngày có chứa thủy ngân.

    Thủy ngân nguyên tố có trong:

    - Nhiệt kế thủy tinh và một số thiết bị y tế

    - Công tắc điện

    - Bóng đèn huỳnh quang

    - Trám răng

    Thủy ngân vô cơ có trong:

    - Pin

    - Các phòng thí nghiệm hóa học

    - Một số chất khử trùng

    Thủy ngân hữu cơ có trong:

    - Khói từ than đốt chuyển thành thủy ngân hữu cơ

    - Một số loại cá, hải sản

    - Chất khử trùng thimerosal

    Cách xử lý thủy ngân:

    Cách xử lý khi gặp phải thủy ngân là đeo khẩu trang y tế, dùng găng tay cao su rắc bột lưu huỳnh hay còn gọi là diêm sinh quanh khu vực có thủy ngân vì thủy ngân tác dụng với bột lưu huỳnh sẽ bị kết tủa và không bay vào không khí. Hoặc nếu trong trường hợp gấp nhà không có lưu huỳnh các bạn cũng có thể dùng 1 quả trứng đập ra và rắc lên phủ quanh hạt thủy ngân.

    Trong trường hợp thủy ngân rơi vào các khe không thể hót, quét được có thể dùng sắt clorua để xử lý thủy ngân hoặc có thể dùng đồng nguyên chất, bạc nguyên chất (đũa bạc, xẻng đồng) để cho thủy ngân bám dính vào.

    Nếu vô tình nuốt phải thủy ngân, bênh nhân cần đến bệnh viên ngay để được súc ruột, nên uống nhiều nước để loại thủy ngân ra khỏi cơ thể qua đường tiêu hóa.

    Phòng chống:

    - Chọn và dùng các loại sơn cho cả nội thất và ngoại thất không sử dụng chì và thủy ngân.

    - Mua các vật dụng gia đình: Đồ pha lê, đồ gốm hoặc đồ chơi cho trẻ em có nguồn gốc rõ ràng để đảm bảo không sử dụng chì và thủy ngân trong quá trình sản xuất.

    - Có chế độ ăn thích hợp có nhiều chất sắt, calci, vitamin C để tăng cường sức đề kháng của cơ thể.

    - Không cho trẻ gặm vành cửa sổ hoặc các vật dụng có sơn.

    - Không nên sử dụng nhiệt kế thủy tinh có chứa thủy ngân khi nhà có trẻ nhỏ, nên dùng nhiệt kế điện tử.

    - Thường xuyên rửa tay với xà phòng.

    - Để nước trong vòi chảy độ 60 giây, trước khi hứng sử dụng. Khoảng một tháng một lần, tháo và chùi bộ phận lọc của vòi nước để loại bỏ chất cặn.
     
    Last edited by a moderator: 5 Tháng bảy 2016
  2. Admin

    Admin Cho đi là còn mãi Thành viên BQT

    Bài viết:
    Tìm chủ đề
    1,067
    Tìm hiểu kỹ hơn về Thuỷ ngân và các thuộc tính của nó.

    Thủy ngân là một nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn có ký hiệu Hg (từ tiếng Hy Lạp hydrargyrum, tức là thủy ngân (hay nước bạc)) và số nguyên tử 80. Là một kim loại lưỡng tính nặng có ánh bạc, thủy ngân là một nguyên tố kim loại được biết có dạng lỏng ở nhiệt độ thường. Thủy ngân được sử dụng trong các nhiệt kế, áp kế và các thiết bị khoa học khác. Thủy ngân thu được chủ yếu bằng phương pháp khử khoáng chất chu sa.

    Thuộc tính

    Thủy ngân có tính dẫn nhiệt kém nhưng dẫn điện tốt.

    Thủy ngân tạo ra hợp kim với phần lớn các kim loại, bao gồm vàng, nhôm và bạc, đồng nhưng không tạo với sắt. Do đó, người ta có thể chứa thủy ngân trong bình bằng sắt. Telua cũng tạo ra hợp kim, nhưng nó phản ứng rất chậm để tạo ra telurua thủy ngân. Hợp kim của thủy ngân được gọi là hỗn hống.

    Kim loại này có hệ số nở nhiệt là hằng số khi ở trạng thái lỏng, hoạt động hóa học kém kẽm và cadmium. Trạng thái ôxi hóa phổ biến của nó là +1 và +2. Rất ít hợp chất trong đó thủy ngân có hóa trị +3 tồn tại.

    Thủy ngân rất độc, có thể gây chết người khi bị nhiễm độc qua đường hô hấp.


    Ứng dụng


    Thủy ngân được sử dụng chủ yếu trong sản xuất các hóa chất,trong kỹ thuật điện và điện tử. Nó cũng được sử dụng trong một số nhiệt kế. Các ứng dụng khác là:

    Máy đo huyết áp chứa thủy ngân (đã bị cấm ở một số nơi).

    Thimerosal, một hợp chất hữu cơ được sử dụng như là chất khử trùng trong vaccin và mực xăm (Thimerosal in vaccines).

    Phong vũ kế thủy ngân, bơm khuếch tán, tích điện kế thủy ngân và nhiều thiết bị phòng thí nghiệm khác. Là một chất lỏng với tỷ trọng rất cao, Hg được sử dụng để làm kín các chi tiết chuyển động của máy khuấy dùng trong kỹ thuật hóa học.

    Điểm ba trạng thái của thủy ngân, -38,8344 °C, là điểm cố định được sử dụng như nhiệt độ tiêu chuẩn cho thang đo nhiệt độ quốc tế (ITS-90).

    Trong một số đèn điện tử.

    Hơi thủy ngân được sử dụng trong đèn hơi thủy ngân và một số đèn kiểu "đèn huỳnh quang" cho các mục đích quảng cáo. Màu sắc của các loại đèn này phụ thuộc vào khí nạp vào bóng.

    Thủy ngân được sử dụng tách vàng và bạc trong các quặng sa khoáng.

    Thủy ngân vẫn còn được sử dụng trong một số nền văn hóa cho các mục đích y học dân tộc và nghi lễ. Ngày xưa, để chữa bệnh tắc ruột, người ta cho bệnh nhân uống thủy ngân lỏng (100-200 g). Ở trạng thái kim loại không phân tán, thủy ngân không độc và có tỷ trọng lớn nên sẽ chảy trong hệ thống tiêu hóa và giúp thông ruột cho bệnh nhân.

    Các ứng dụng khác: chuyển mach điện bằng thủy ngân, điện phân với cathode thủy ngân để sản xuất NaOH và clo, các điện cực trong một số dạng thiết bị điện tử, pin và chất xúc tác, thuốc diệt cỏ (ngừng sử dụng năm 1995), thuốc trừ sâu, hỗn hống nha khoa, pha chế thuốc và kính thiên văn gương lỏng.


    Lịch sử

    Biểu tượng của thủy ngân

    Người Trung Quốc và Hindu cổ đại đã biết tới thủy ngân và nó được tìm thấy trong các ngôi mộ cổ Ai Cập có niên đại vào khoảng năm 1500 TCN. Tại Trung Quốc, Ấn Độ và Tây Tạng, việc sử dụng thủy ngân được cho là kéo dài tuổi thọ, chữa lành chỗ gãy và duy trì một sức khỏe tốt. Người Hy Lạp cổ đại sử dụng thủy ngân trong thuốc mỡ và người La Mã sử dụng nó trong mỹ phẩm. Vào khoảng năm 500 TCN thủy ngân đã được sử dụng để tạo các hỗn hống với các kim loại khác.

    Từ Rassayana trong tiếng Ấn Độ có nghĩa là giả kim thuật còn có nghĩa là ‘con đường của thủy ngân’ Các nhà giả kim thuật thông thường nghĩ rằng thủy ngân là vật chất khởi đầu để các kim loại khác được tạo ra. Các kim loại khác nhau có thể được sản xuất bởi các lượng và chất khác nhau của lưu huỳnh chứa trong thủy ngân. Khả năng chuyển thủy ngân thành kim loại khác phụ thuộc vào "chất lượng thủy ngân thiết yếu" của các kim loại. Tinh khiết nhất trong số đó là vàng, và thủy ngân là thiết yếu để biến đổi của các kim loại gốc (hay không tinh khiết) thành vàng. Đây là nguyên lý và mục đích cơ bản của giả kim thuật, xét cả về phương diện tinh thần hay vật chất.

    Hg là ký hiệu hóa học ngày nay cho thủy ngân. Nó là viết tắt của Hydrargyrum, từ Latinh hóa của từ Hy Lạp Hydrargyros, là tổ hợp của 2 từ 'nước' và 'bạc' — vì nó lỏng giống như nước, và có ánh kim giống như bạc. Trong ngôn ngữ châu Âu, nguyên tố này được đặt tên là Mercury, lấy theo tên của thần Mercury của người La Mã, được biết đến với tính linh động và tốc độ. Biểu tượng giả kim thuật của nguyên tố này cũng là biểu tượng chiêm tinh học cho Thủy Tinh.

    Từ giữa thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19, một công nghệ gọi là "carroting" được sử dụng trong sản xuất mũ phớt. Da động vật được ngâm vào trong dung dịch màu da cam của hợp chất nitrat thủy ngân, Hg(NO3)2•2H2O. Công nghệ này tách lông ra khỏi con da và cuộn chúng lại với nhau. Dung dịch này và hơi của nó rất độc. Việc sử dụng chất này đã làm cho một loạt các nhà sản xuất mũ ngộ độc thủy ngân. Triệu chứng của nó là run tay chân, dễ xúc cảm, mất ngủ, hay quên và ảo giác. Tháng 12 năm 1941, Dịch vụ sức khỏe cộng đồng Mỹ đã cấm sử dụng thủy ngân trong sản xuất mũ.


    Nha khoa


    Thủy ngân nguyên tố là thành phần chính trong hỗn hống nha khoa. Tranh luận xung quanh các ảnh hưởng sức khỏe từ việc sử dụng hỗn hống thủy ngân bắt đầu kể từ khi nó được đưa vào sử dụng ở phương Tây, khoảng 200 năm trước. Năm 1843, Hiệp hội các nha sĩ Mỹ, lo ngại về ngộ độc thủy ngân, đã yêu cầu các thành viên ký cam kết bảo đảm không sử dụng hỗn hống. Năm 1859, Hiệp hội nha khoa Mỹ (ADA) đã được các nha sĩ (tin rằng hỗn hống là an toàn và hiệu quả) thành lập. ADA, "tiếp tục tin rằng hỗn hống là lựa chọn có giá trị, an toàn đối với các bệnh nhân nha khoa" như đã viết ra trong tuyên bố về hỗn hống nha khoa] của họ. Năm 1993, Dịch vụ sức khỏe cộng đồng Mỹ báo cáo rằng "việc bơm hỗn hống giải phóng một lượng nhỏ hơi thủy ngân", nhưng nhỏ tới mức nó "không chỉ ra to các hiệu ứng bất lợi cho sức khỏe nào". Năm 2002, California trở thành bang đầu tiên cấm sử dụng việc bơm hỗn hống trong tương lai(có hiệu lực từ năm 2006). Cho đến thời điểm năm 2005, tranh cãi xung quanh hỗn hống nha khoa vẫn còn tiếp diễn.


    Y tế

    Thủy ngân đã được sử dụng để chữa bệnh trong hàng thế kỷ. Clorua thủy ngân (I) và clorua thủy ngân (II) là những hợp chất phổ biến nhất. Thủy ngân được đưa vào điều trị giang mai sớm nhất vào thế kỷ 16, trước khi có các chất kháng sinh. "Blue mass", viên thuốc nhỏ chứa thủy ngân, đã được kê đơn trong suốt thế kỷ 19 đối với hàng loạt các triệu chứng bệnh như táo bón, trầm cảm, sinh đẻ và đau răng. Trong đầu thế kỷ 20, thủy ngân được cấp phát cho trẻ em hàng năm như là thuốc nhuận tràng và tẩy giun. Nó là bột ngậm cho trẻ em và một số vacxin có chứa chất bảo quản Thimerosal (một phần là etyl thủy ngân) kể từ những năm 1930. Clorua thủy ngân (II) là chất tẩy trùng đối với các bác sĩ, bệnh nhân và thiết bị.

    Thuốc và các thiết bị chứa thủy ngân tiềm ẩn nhiều nguy hiểm, mặc dù chúng đã được sử dụng rộng rãi trong quá khứ. Nhiệt kế và huyết áp kế chứa thủy ngân đã được phát minh trong thế kỷ 18 và 19, trong đầu thế kỷ 21, việc sử dụng chúng đã giảm và bị cấm ở một số quốc gia, khu vực và trường đại học. Năm 2002, Thượng viện Mỹ đã thông qua sắc luật cấm bán nhiệt kế thủy ngân không theo đơn thuốc. Năm 2003, Washington và Maine trở thành các bang đầu tiên cấm các thiết bị đo huyết áp có chứa thủy ngân. Năm 2005, các hợp chất thủy ngân được tìm thấy ở một số dược phẩm quá mức cho phép, ví dụ các chất tẩy trùng cục bộ, thuốc nhuận tràng, thuốc mỡ trên tã chống hăm, các thuốc nhỏ mắt hay xịt mũi. Cục quản lý thuốc và thực phẩm (FDA) có "dữ liệu không đủ để thiết lập sự thừa nhận chung về tính an toàn và hiệu quả" của thành phần thủy ngân trong các sản phẩm này.


    Phổ biến

    Quặng thủy ngân

    Là một nguyên tố hiếm trong vỏ Trái Đất, thủy ngân được tìm thấy hoặc như là kim loại tự nhiên (hiếm thấy) hay trong chu sa, corderoit, livingstonit và các khoáng chất khác với chu sa (HgS) là quặng phổ biến nhất. Khoảng 50% sự cung cấp toàn cầu đến từ Tây Ban Nha và Ý, và phần lớn số còn lại từ Slovenia, Nga và Bắc Mỹ. Kim loại thu được bằng cách đốt nóng chu sa trong luồng không khí và làm lạnh hơi thoát ra.


    Hợp chất

    Các muối quan trọng nhất là:

    Clorua thủy ngân (I) (calomen và đôi khi vẫn được sử dụng trong y học).

    Clorua thủy ngân (II) (là một chất có tính ăn mòn mạnh, thăng hoa và là chất độc cực mạnh)

    Fulminat thủy ngân, (ngòi nổ sử dụng rộng rãi trong thuốc nổ),

    Sulfua thủy ngân (II) (màu đỏ thần sa là chất màu chất lượng cao),

    Selenua thủy ngân (II) chất bán dẫn,

    Telurua thủy ngân (II) chất bán dẫn và

    Telurua cadmi thủy ngân là những vật liệu dùng làm đầu dò tia hồng ngoại.

    Các hợp chất hữu cơ của thủy ngân cũng là quan trọng. Các thí nghiệm trong phòng thí nghiệm cho thấy sự phóng điện làm cho các khí trơ kết hợp với hơi thủy ngân. Các hợp chất này được tạo ra bởi các lực van der Waals và kết quả là các hợp chất như HgNe, HgAr, HgKr và HgXe. Methyl thủy ngân là hợp chất rất độc, là chất gây ô nhiễm thủy sinh vật.


    Đồng vị

    Có 7 đồng vị ổn định của thủy ngân với 202Hg là phổ biến nhất (29,86%). Các đồng vị phóng xạ bền nhất là 194Hg với chu kỳ bán rã 444 năm, và 203Hg với chu kỳ bán rã 46,612 ngày. Phần lớn các đồng vị phóng xạ còn lại có chu kỳ bán rã nhỏ hơn 1 ngày.


    Vấn đề môi trường

    Lượng thủy ngân trong khí quyển ở sông băng Fremont trong 270 năm qua.

    Tỷ lệ lắng đọng của thủy ngân trước thời kỳ công nghiệp từ khí quyển có thể nằm trong khoảng 4 ng/L ở miền tây nước Mỹ. Mặc dù có thể coi nó như là mức phơi nhiễm tự nhiên, nhưng nó có ảnh hưởng đáng kể.

    Sự phun trào núi lửa có thể tăng nồng độ trong khí quyển từ 4–6 lần. [1]

    Thủy ngân đi vào môi trường như một chất gây ô nhiễm từ các ngành công nghiệp khác nhau:

    Các xí nghiệp sử dụng than làm nhiên liệu là nguồn lớn nhất (40% trong khí thải của Mỹ năm 1999, tuy nhiên đã giảm khoảng 85%). [2]

    Các công nghệ trong công nghiệp:

    Sản xuất clo, thép, phốtphat & vàng


    Luyện kim

    Sản xuất & sửa chữa các thiết bị điện tử

    Việc đốt hay vùi lấp các chất thải đô thị

    Các ứng dụng y học, kể cả trong quá trình sản xuất và bảo quản vacxin.

    Nha khoa

    Công nghiệp mỹ phẩm

    Các thí nghiệm trong phòng thí nghiệm liên quan đến các hợp chất của thủy ngân và lưu huỳnh.

    Thủy ngân cũng đi vào môi trường theo đường xử lý một số sản phẩm nào đó. Các sản phẩm có chứa thủy ngân bao gồm: các bộ phận của ô tô, pin, đèn huỳnh quang, các sản phẩm y tế, nhiệt kế và máy điều nhiệt.[3]. Vì các vấn đề liên quan tới sức khỏe (xem dưới đây), các cố gắng giảm sử dụng các chất độc là cắt giảm hoặc loại bỏ thủy ngân trong các sản phẩm đó. Ví dụ, phần lớn các nhiệt kế sử dụng rượu nhuộm màu thay cho thủy ngân. Các nhiệt kế thủy ngân thỉnh thoảng vẫn được sử dụng trong y khoa hay các ứng dụng khoa học do chúng có độ chính xác cao hơn của nhiệt kế rượu và có khoảng đo cao hơn, mặc dù cả hai đang được thay thế dần bằng các nhiệt kế điện tử.

    Một trong những thảm họa công nghiệp tồi tệ nhất trong lịch sử là thải các hợp chất thủy ngân vào vịnh Minamata, Nhật Bản. Tập đoàn Chisso, một nhà sản xuất phân hóa học và sau này là công ty hóa dầu, đã bị phát hiện là chịu trách nhiệm cho việc gây ô nhiễm vịnh này từ năm 1932 đến 1968. Người ta ước tính rằng trên 3.000 người đã có những khuyết tật nào đó hay có triệu chứng ngộ độc thủy ngân nặng nề hoặc đã chết vì ngộ độc nó, từ đó nó trở thành nổi tiếng với tên gọi thảm họa Minamata.

    Các hiệu ứng sức khỏe & môi trường[sửa | sửa mã nguồn]
    Thủy ngân nguyên tố lỏng là ít độc, nhưng hơi, các hợp chất và muối của nó là rất độc và là nguyên nhân gây ra các tổn thương não và gan khi con người tiếp xúc, hít thở hay ăn phải. Nguy hiểm chính liên quan đến thủy ngân nguyên tố là ở STP, thủy ngân có xu hướng bị ôxi hóa tạo ra Ôxít thủy ngân - khi bị rớt xuống hay bị làm nhiễu loạn, thủy ngân sẽ tạo thành các hạt rất nhỏ, làm tăng diện tích tiếp xúc bề mặt một cách khủng khiếp.

    Thủy ngân là chất độc tích lũy sinh học rất dễ dàng hấp thụ qua da, các cơ quan hô hấp và tiêu hóa. Các hợp chất vô cơ ít độc hơn so với hợp chất hữu cơ của thủy ngân. Cho dù ít độc hơn so với các hợp chất của nó nhưng thủy ngân vẫn tạo ra sự ô nhiễm đáng kể đối với môi trường vì nó tạo ra các hợp chất hữu cơ trong các cơ thể sinh vật.

    Một trong những hợp chất độc nhất của nó là đimêtyl thủy ngân, là độc đến đến mức chỉ vài micrôlít rơi vào da có thể gây tử vong. Một trong những mục tiêu chính của các chất độc này là enzym pyruvat dehiđrôgenat (PDH). Enzym bị ức chế hoàn toàn bởi một vài hợp chất của thủy ngân, thành phần gốc axít lipoic của phức hợp đa enzym liên kết với các hợp chất đó rất bền và vì thế PDH bị ức chế.

    Chứng bệnh Minamata là một dạng ngộ độc thủy ngân. Thủy ngân tấn công hệ thần kinh trung ương và hệ nội tiết và ảnh hưởng tới miệng, các cơ quai hàm và răng. Sự phơi nhiễm kéo dài gây ra các tổn thương não và gây tử vong. Nó có thể gây ra các rủi ro hay khuyết tật đối với các thai nhi. Không khí ở nhiệt độ phòng có thể bão hòa hơi thủy ngân cao hơn nhiều lần so với mức cho phép, cho dù nhiệt độ sôi của thủy ngân là không thấp.

    Thông qua quá trình tích lũy sinh học mêtyl thủy ngân nằm trong chuỗi thức ăn, đạt đến mức tích lũy cao trong một số loài như cá ngừ. Sự ngộ độc thủy ngân đối với con người là kết quả của việc tiêu thụ lâu dài một số loại lương thực, thực phẩm nào đó. Các loài cá lớn như cá ngừ hay cá kiếm thông thường chứa nhiều thủy ngân hơn các loài cá nhỏ, do thủy ngân tích lũy tăng dần theo chuỗi thức ăn.

    Các nguồn nước tích lũy thủy ngân thông qua quá trình xói mòn của các khoáng chất hay trầm tích từ khí quyển. Thực vật hấp thụ thủy ngân khi ẩm ướt nhưng có thể thải ra trong không khí khô [4]. Thực vật và các trầm tích trong than có các nồng độ thủy ngân dao động mạnh.

    Êtyl thủy ngân là sản phẩm phân rã từ chất chống khuẩn thimerosal và có hiệu ứng tương tự nhưng không đồng nhất với mêtyl thủy ngân.


    Cảnh báo & Quy định

    Thủy ngân cần được tiếp xúc một cách cực kỳ cẩn thận. Các đồ chứa thủy ngân phải đậy nắp chặt chẽ để tránh rò rỉ và bay hơi. Việc đốt nóng thủy ngân hay các hợp chất của nó phải tiến hành trong điều kiện thông gió tốt và người thực hiện phải đội mũ có bộ lọc khí. Ngoài ra, một số ôxít có thể bị phân tích thành thủy ngân, nó có thể bay hơi ngay lập tức mà không để lại dấu vết.

    Vì các ảnh hưởng tới sức khỏe trong phơi nhiễm thủy ngân, các ứng dụng thương mại và công nghiệp nói chung được điều tiết ở các nước công nghiệp. Tổ chức y tế thế giới (WHO), OSHA và NIOSH đều thống nhất rằng thủy ngân là nguy hiểm nghề nghiệp và đã thiết lập các giới hạn cụ thể cho các phơi nhiễm nghề nghiệp. Ở Mỹ, giới hạn thải ra môi trường được EPA quy định.
     
Đang tải...